Search

18.11.12

5 bậc nhu cầu tâm lý con người

Phanblogs


Lý thuyết Thang bậc nhu cầu (Maslow’s Hierarchy of Needs)
Lý thuyết Thang bậc nhu cầu (Maslow’s Hierarchy of Needs)


và các ứng dụng của nó trong đời sống và giáo dục.

Mở đầu

(GVO) - Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn (humanistic psychology), trường phái này được xem là thế lực thứ 3 (the Third Force) khi thế giới lúc ấy đang biết đến 2 trường phái tâm lý chính: Phân tâm học (Psychoanalysis) và Chủ nghĩa hành vi (Behaviorism).

Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của con người.
 Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.

Tổng quan về lý thuyết Thang bậc nhu cầu của Maslow (Maslow’s Hierarchy of Needs)

Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc:
- Nhu cầu cơ bản (basic needs)
- Nhu cầu về an toàn (safety needs)
- Nhu cầu về xã hội (social needs)
- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)


Sau đó, vào những năm 1970 và 1990, sự phân cấp này đã được Maslow hiệu chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc:

-
 Nhu cầu cơ bản (basic needs)
- Nhu cầu về an toàn (safety needs)
- Nhu cầu về xã hội (social needs)
- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
- Nhu cầu về nhận thức (cognitive needs)
- Nhu cầu về thẩm mỹ (aesthetic needs)
- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
- Sự siêu nghiệm (transcendence)
Hệ thống cấp bậc nhu cầu của Maslow thường được thể hiện dưới dạng một hình kim tự tháp, các nhu cầu ở bậc thấp thì càng xếp phía dưới.

Lý thuyết Thang bậc nhu cầu (Maslow’s Hierarchy of Needs) và các ứng dụng của nó trong đời sống và giáo dục.(tt)

Giải thích và phân tích
Maslow’s Hierarchy of Needs


Trong bài viết này, chúng tôi sẽ sử dụng phiên bản 5 bậc để phân tích và giải thích các hành động trong cuộc sống và giáo dục.

1. Nhu cầu cơ bản (basic needs): 

Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, không khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất. 

Maslow cho rằng, 
những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.

Ông bà ta cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”, cần phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu cầu cao hơn. 

Chúng ta có thể kiểm chứng dễ dàng điều này khi cơ thể không khỏe mạnh, đói khát hoặc bệnh tật, lúc ấy, các nhu cầu khác chỉ còn là thứ yếu. 

Sự phản đối của công nhân, nhân viên khi đồng lương không đủ nuôi sống họ cũng thể hiện việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản cần phải được thực hiện ưu tiên.

2. Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs): 

Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không còn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần. 

Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,…. 
Trẻ con thường hay biểu lộ sự thiếu cảm giác an toàn khi bứt rứt, khóc đòi cha mẹ, mong muốn được vỗ về.

Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng là do nhu cầu an toàn này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần.

Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm, …cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.
* Thông qua việc nghiên cứu 2 cấp bậc nhu cầu trên chúng ta có thể thấy nhiều điều thú vị:

- Muốn kìm hãm hay chặn đứng sự phát triển của một người nào đó, cách cơ bản nhất là tấn công vào các nhu cầu bậc thấp của họ. Nhiều người làm việc chịu đựng các đòi hỏi vô lý, các bất công, vì họ sợ bị mất việc làm, không có tiền nuôi bản thân và gia đình, họ muốn được yên thân,…

- Muốn một người phát triển ở mức độ cao thì phải đáp ứng các nhu cầu bậc thấp của họ trước: đồng lương tốt, chế độ đãi ngộ hợp lý, nhà cửa ổn định,…Chẳng phải ông bà chúng ta đã nói: “An cư mới lạc nghiệp” hay sao?

- 
Một đứa trẻ đói khát cùng cực thì không thể học tốt, một đứa trẻ bị stress thì không thể học hành, một đứa trẻ bị sợ hãi, bị đe dọa thì càng không thể học. Lúc này, các nhu cầu cơ bản, an toàn, an ninh được kích hoạt và nó chiếm quyền ưu tiên so với các nhu cầu học hành. Các nghiên cứu về não bộ cho thấy, trong các trường hợp bị sợ hãi, bị đe doạ về mặt tinh thần và thể xác, não người tiết ra các hóa chất ngăn cản các quá trình suy nghĩ, học tập.

3. Nhu cầu về xã hội (social needs):

Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm, …

Nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của loài người chúng ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu này sau 2 nhu cầu phía trên, nhưng ông nhấn mạnh rằng 
nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, những người sống độc thân thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp hơn những người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cô đơn có thể dễ dàng giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường từ bỏ thế giới này với lý do: “Những người xung quanh, không có ai hiểu con!”.

Để đáp ứng cấp bậc nhu cầu thứ 3 này, nhiều công ty đã tổ chức cho các nhân viên có các buổi cắm trại ngoài trời, cùng chơi chung các trò chơi tập thể, nhà trường áp dụng các phương pháp làm việc theo nhóm, các phương pháp giảng dạy dựa trên vấn đề, các tổ chức Đoàn, Đội trong nhà trường được giao trách nhiệm tập hợp các em, định hướng các em vào những hoạt động bổ ích. Các kết quả cho thấy: các hoạt động chung, hoạt động ngoài trời đem lại kết quả tốt cho tinh thần và hiệu suất cho công việc được nâng cao.

Kinh nghiệm giảng dạy của nhiều giáo viên cũng đưa đến kết luận: phần lớn các em học sinh sống trong các gia đình hay bất hòa, vợ chồng lục đục, thiếu quan tâm, tình thương của gia đình thường có kết quả học tập không cao như các em học sinh khác.

4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs):

(GVO) - 
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn. 

Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc về một tổ chức”, nhu cầu xã hội phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức, một đội nhóm, chúng ta luôn muốn được mọi người trong nhóm nể trọng, quý đấu để cảm thấy mình có “vị trí” trong nhóm đó.

Kinh nghiệm giáo dục cũng chỉ ra rằng: 
các hành động bêu xấu học sinh trước lớp, cho các học sinh khác “lêu lêu” một em học sinh bị phạm lỗi,… chỉ dẫn đến những hậu quả tồi tệ hơn về mặt giáo dục, tâm lý. 

“Nhà sư phạm lỗi lạc Makarenko trong suốt cuộc đời dạy dỗ trẻ em hư, khi được hỏi bí quyết nào để sửa trị các em, ông nói “Tôi chỉ đúc kết trong một công thức ngắn gọn:

Tôn trọng và yêu cầu cao 

Bản chất tâm lý con người ai cũng muốn được tôn trọng, chạm đến lòng tự trọng là chạm đến điều sâu và đau nhất, là điểm tử huyệt nhất của con người (cho dù đó là đứa trẻ khó dạy, chưa ngoan).

Chỉ tôn trọng mà không yêu cầu là không ổn. Khi được tôn trọng là đã cho con người ở đúng vị trí “Người” nhất của mình. Do vậy, cần có trách nhiệm buộc phải sống và hành xử đúng đắn với sự tôn trọng đó.””


5. Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs):

Khi nghe về nhu cầu này: “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa tiêu cực. 
Không phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất. “Thể hiện mình” không đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lòe lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ nho” khắp nơi, nói năng khệnh khạng, …
Maslow mô tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person's need to be and do that which the person was “born to do”” (
nhu cầu của một cá nhân mong muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”). Nói một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội. 

Chúng ta có thể thấy nhiều người xung quanh mình, khi đã đi đến đoạn cuối của sự nghiệp thì lại luôn hối tiếc vì mình đã không được làm việc đúng như khả năng, mong ước của mình. Hoặc có nhiều trường hợp, một người đang giữ một vị trí lương cao trong một công ty, lại vẫn dứt áo ra đi vì muốn thực hiện các công việc mà mình mong muốn, cái công việc mà Maslow đã nói “born to do”.
Đó chính là việc đi tìm kiếm các cách thức mà năng lực, trí tuệ, khả năng của mình được phát huy và mình cảm thấy hài lòng về nó.

Nhu cầu này cũng chính là mục tiêu cao nhất mà giáo dục hiện đại nhắm đến. Trong báo cáo của Unesco Learning: the Treasure Within, vấn đề học tập đã được mô tả qua 4 trụ cột của giáo dục (The Four Pillars of Education):

- Learning to know : Học để biết ;
- 
Learning to do : Học để làm ;
-
 Learning to live together : Học để chung sống ;
- 
Learning to be : Học để tự khẳng định mình.

Kết luận


Thông qua lý thuyết về Thang bậc nhu cầu được đề xướng bởi nhà tâm lý học Abraham Maslow, mỗi người trong chúng ta có thể rút ra nhiều điều thú vị về những nhu cầu, giá trị trong cuộc sống, tìm hiểu các khó khăn mà học sinh gặp phải, các phương thức cần thiết để giáo dục hiệu quả.

Cũng giống như bao lý thuyết khác, lý thuyết này dĩ nhiên không phải là một sự tuyệt đối hóa và toàn vẹn, nó cũng nhận được nhiều ý kiến trái ngược và phản bác. Tuy nhiên, hơn 60 năm qua, lý thuyết vẫn được nhắc đến và sử dụng rộng rãi.

Nguồn giaovien.net







PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


BÀI TẬP KỸ NĂNG 1

MÔN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG – LAW101



Câu 1 (6 điểm): Hãy phân tích các nội dung sau đây:
a) Vị trí, chức năng của Chính phủ
b) Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ
c) Mối quan hệ pháp lý giữa Chính phủ với Quốc hội
d) Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành.
Bài làm:
a) Vị trí, chức năng của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.





b) Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ

Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ.
Phiên họp của Chính phủ chỉ được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Chính phủ tham dự.
Trong các phiên họp thảo luận các vấn đề quan trọng được quy định tại Điều 19 của Luật này, các quyết định của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành.
Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết.




Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.

c) Mối quan hệ pháp lý giữa Chính phủ với Quốc hội
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.
Hàng quý, sáu tháng, Chính phủ gửi báo cáo công tác của Chính phủ đến Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tại kỳ họp giữa năm của Quốc hội, Chính phủ gửi báo cáo công tác đến các đại biểu Quốc hội. Trong kỳ họp cuối năm của Quốc hội, Chính phủ báo cáo trước Quốc hội về công tác của Chính phủ.
Khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội yêu cầu thì các thành viên của Chính phủ có trách nhiệm đến trình bày hoặc cung cấp các tài liệu cần thiết.
Thủ tướng Chính phủ hoặc thành viên của Chính phủ có trách nhiệm trả lời các kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị.
Thủ tướng Chính phủ hoặc thành viên của Chính phủ có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội.
Kinh phí hoạt động của Chính phủ do Quốc hội quyết định từ ngân sách nhà nước.

d) Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành:
Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên;
Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
Trình các dự án luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chương trình của Chính phủ về xây dựng luật, pháp lệnh với Uỷ ban thường vụ Quốc hội; ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp;
Thủ tướng Chính phủ ký các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.
Các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước.
Nguồn tham khảo :
[1]. Khoa Luật, Đại học Kinh tế quốc dân. 2012. Giáo trình Pháp luật đại cương. Tái bản lần thứ 3, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
 [2]. Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
 [3]. Luật tổ chức Quốc hội 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007
 [4]. Luật tổ chức Chính phủ 2001

Câu 2 (2 điểm): Nhận định sau đây là đúng hay sai ? Vì sao?
"Bộ Kế hoạch và Đầu tư không phải là cơ quan thuộc Chính phủ".
Bài làm:
Nhận định trên là ĐÚNG vì :
·        Bộ kế hoạch đầu tư là 1 bộ thuộc danh sách 18 các bộ ngành trung ương hiện có tại Việt Nam.
·        Bộ Kế hoạch và Đầu tư được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1995, theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư.
·        Theo điều 110 hiến pháp 1992  « Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác «   vì vậy mặc nhiên Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải là cơ quan của Chính phủ.
·        Điều 2 Nghị định số 36/2012/NĐ-CP của Chính phủ Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực.
·        Điều 22 Luật Tổ chức Chính phủ: Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật."
·        Bộ do Quốc Hội quyết định thành lập, bãi bỏ theo quy định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 (khoản 8) và Điều 2 Luật Tổ chức Chính phủ
·        Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm: các Bộ và cơ quan ngang bộ (Điều 2 Luật Tổ chức Chính phủ)
·        Còn cơ quan thuộc Chính phủ do Chính phủ thành lập theo quy định tại khoản 7 Điều 19 Luật tổ chức Chính phủ
Vậy nói : "Bộ Kế hoạch và Đầu tư không phải là cơ quan thuộc Chính phủ". Là ĐÚNG.





Câu 3 (2 điểm): Nhận định sau đây là đúng hay sai ? Vì sao?
"Mọi hành vi trái pháp luật đều phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý".
Bài làm :
Ý kiến trên là SAI
Chúng ta cần phân biệt rõ giữa hành vi vi phạm pháp luậthành vi trái pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật. Như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, quá phạm vi cho phép của pháp luật
Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên trên thực tế, nếu có hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện mà không biết ai là người đã thực hiện thì không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý. Hoặc khi cơ quan nhà nước biết về hành vi vi phạm pháp luật thì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý thì người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không phải chịu trách nhiệm pháp lý nữa
• Vi phạm pháp luật phải là hành vi do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Trong pháp luật, sự độc lập gánh chịu trách nhiệm pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự và có sự tự do ý chí, tức là người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình. Vì vậy, những hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng do những người không có năng lực hành vi, người mất năng lực hành vi thực hiện thì vẫn không bị coi là vi phạm pháp luật.
• Vi phạm pháp luật là những hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của họ là biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý đó có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan mà chủ thể hành vi đó không thể ý thức hoặc lường trước được thì họ không thể bị coi là có lỗi, và do đó không thể bị coi là vi phạm pháp luật.Có những trường hợp có vi phạm pháp luật nhưng chủ thể không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Đó là những trường hợp chủ thể không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình như: mắc bệnh tâm thần ; chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự...Nhưng trên phương diện lý luận, thì đã có vi phạm pháp luật thì phát sinh trách nhiệm pháp lý. Còn thực tế chịu trách nhiệm hay thực hiện trách nhiệm hay không thì tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà pháp luật sẽ có những chế tài cụ thể.
Vậy có thể nói : hành vi vi phạm pháp luật bao gồm hành vi trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm pháp lý. Nhưng không thể nói ngược lại.
Vì vậy nhận định "Mọi hành vi trái pháp luật đều phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý". Là SAI











thị phần sử dụng của các trình duyệt này trên thế giới và tại Việt Nam

Phanblogs Anh/Chị và nhóm của mình hãy trình bày chi tiết về các trình duyệt Web phổ biến hiện nay? Nhận xét, đánh giá về thị phần sử dụng của các trình duyệt này trên thế giới và tại Việt Nam?


I- Tổng quan
Duyệt web là điều tuyệt vời nhất khi vào internet, trình duyệt web là một phần mềm ứng dụng cho phép người sử dụng xem và tương tác với các văn bản, hình ảnh, đoạn phim, nhạc, trò chơi và các thông tin khác ở trên một trang web của một địa chỉ web trên mạng toàn cầu hoặc mạng nội bộ. Văn bản và hình ảnh trên một trang web có thể chứa siêu liên kết tới các trang web khác của cùng một địa chỉ web hoặc địa chỉ web khác. Trình duyệt web cho phép người sử dụng truy cập các thông tin trên các trang web một cách nhanh chóng và dễ dàng thông qua các liên kết đó. Trình duyệt web đọc định dạng HTML để hiển thị, do vậy một trang web có thể hiển thị khác nhau trên các trình duyệt khác nhau
Các trình duyệt web phổ biến hiện nay : Fire fox, IE, google chrome, opera, safari.

II- Phân tích chi tết các trình duyệt web :

1 Trình duyệt web Opera
Trình duyệt Opera là một bộ phần mềm Internet điều khiển các tác vụ liên quan đến Internet bao gồm duyệt Web, gửi, nhận thư điện tử, tin nhắn, quản lý danh sách liên hệ và trò truyện trực tuyến. Opera được phát triển bởi công ty Opera Software, có trụ sở chính đặt tại Na Uy.
Opera có thể chạy trên rất nhiều hệ điều hành khác nhau như: Windows, Mac OS, Linux …. Nó cũng được sử dụng trên nhiều thiết bị như: Smartphone, Tablet, các thiết bị trò chơi cầm tay khác.

1 Khả năng truy cập và tốc độ của trình duyệt Opera.

Trình duyệt Opera được thiết kế khá nhẹ để có thể chạy được trên các máy tính đời cũ và yếu, có khả năng xử lý Dom, CSS nhanh.
Chúng ta có thể mở rộng các chức năng của Opera bằng cách truy cập vào phần mở rộng, tải video xuống, tự động dịch ngôn ngữ và nhiều tính năng khác. trình duyệt Opera cũng cho phép người dùng có thể lưu giữ nhiều trang web như là một phiên làm việc. Tập hợp trang web này có thể được mở sau đó và người dùng tiếp tục công việc dang dở, thông tin làm việc bao gồm lịch sử (history) và thiết lập của từng trang, như kích thước chữ, độ phóng to, nhỏ được lưu trữ trong tệp đặc biệt, tệp này có thể truyền đến máy tính khác qua thư điện tử (Email) hoặc các thiết bị lưu trữ.
Trong thử nghiệm tải trang web, Opera cùng sánh vai với trình duyệt Chrome ở vị trí thứ nhất. Tốc độ tải duyệt web trang thử nghiệm chỉ mất có 3,79 giây. Về khả năng xử lý Javacript, Opera chỉ xếp thứ 4 nhưng lại xếp áp chót trong thử nghiệm với HTML 5, chỉ trên trình duyệt Safari. Với trang web HTML 5 thì Opera gây treo trình duyệt, lần thứ 2 có tải được trang web song hiển thị thiếu mất một số thành phần trang.
Trình duyệt Opera cũng cung cấp một số ứng dụng và công cụ mở rộng dưới dạng các ứng dụng nhẹ được rải về tại Opera web Store, chúng chạy trên máy tính của người dùng như những ứng dụng độc lập. Người dùng có thể sử dụng các ứng dụng này mà không cần chạy Opera song nhất thiết phải có cài ứng Opera trong máy tính, các ứng dụng này có nhiều loại Game cho tới trình đọc RRS và đều được Opera Software xem xét và đảm bảo an toàn trước khi được đưa vào sử dụng.
Một tính năng quan trọng của trình duyệt này là Opera Turbo. Nó sử dụng các máy chủ của Opera để nén các trang web một cách tối ưu khiến cho người sử dụng có đường truyền chậm cũng có thể lướt web được dễ dàng. Đối với người dùng có băng thông rộng thì nó lại có tác dụng tiết kiệm được băng thông.
Opera cũng hỗ trợ chế độ lướt web riêng tư và đưa ra cảnh báo khi người dùng có ý định ghé thăm các trang web “tọc mạch”. Opera cũng cho phép người sử dụng tự thiết lập các chế độ chấp nhận cookie khác nhau tuy việc này có vẻ hơi lằng nhằng đối với đa số người dùng. So sánh với các đối thủ khác cùng thử nghiệm, Opera là trình duyệt có chế độ bảo mật kém nhất.
2 trình duyệt web Safari
Ưu điểm:
các thông số được đặc biệt quan tâm là tốc độ, bảo mật, tính năng và tiện ích mở rộng
Khi nói đến ưu điểm của trình duyệt Apple Safari ta đề cập đến tốc độ, bảo mật, tính năng và tiện ích mở rộng, chi tiết được thể hiện:
Tốc độ: Cho dù bạn muốn quay trở lại trang trước hoặc về phía trước hoặc chỉ cần tải một trang mới.
Giao diện: của Safari có thể nói là khá đẹp, thiết kế: Màu xám và màu xanh xung quanh cửa sổ ngay lập tức bắt mắt và cung cấp cho các trình duyệt cái nhìn thanh lịch.
Địa chỉ thông minh: Tự động viết nốt các địa chỉ web bằng cách hiển thị danh sách gợi ý/dò đoán rất dễ đọc từ Top Sites, lịch sử duyệt web và "Đánh dấu".
Ô tìm kiếm thông minh: Nơi người dùng điều chỉnh từ khóa tìm kiếm nhờ sự gợi ý và khuyến nghị từ Google Suggest.
Top Sites: Hiển thị những trang web thường được ghé thăm nhất, có kèm theo "preview" của trang để người dùng có thể vào site mình thích chỉ với một lần click chuột duy nhất.
Tìm kiếm lịch sử duyệt web hoàn chỉnh: Nơi người dùng có thể tìm kiếm thông qua tiêu đề, địa chỉ web và một đoạn ký tự hoàn chỉnh của những trang web được xem gần đấy. Họ sẽ có thể dễ dàng trở lại những site mà mình quan tâm.
Phóng to và ra tùy chọn đó là rất tốt cho những người có khuyết tật mắt và cũng cho những người bình thường, những người muốn tăng hoặc giảm các phông chữ của trang họ lướt.
Tab mới. Nếu bạn đang làm việc trong cửa sổ hiện và muốn mở một số khác trong cùng một cửa sổ, bạn có tùy chọn để mở tab mới ". Vì vậy, bây giờ bạn có thể làm việc với một vài cửa sổ cùng một lúc.
Duyệt web riêng tư. Tùy chọn này mà đảm bảo cho bạn khả năng bảo vệ bằng cách không lưu lịch sử của bạn hoặc tải. Trong thời điểm bạn đóng trình duyệt, tất cả mọi thứ đã bị xóa.
Chặn các cửa sổ pop-up. Tùy chọn này đã được xây dựng cho phép bạn lướt nhẹ nhàng mà không gây phiền nhiễu pop-up cửa sổ chương trình quảng cáo.
RSS tùy chọn. Điều này cho phép bạn cập nhật tất cả các tin tức gần đây. Nó cho bạn thấy một danh sách 100 bài viết mới mỗi ngày.
Nhược điểm:
Đầu tiên: phải đề cập đến Safari là một trình duyệt khá đầy đủ và trực quan, nhưng bạn có thể có nhiều lựa chọn tốt hơn, đặc biệt là trên hệ điều hành Windows. Safari không thể đạt điểm cao trong bài test về tốc độ
Thứ hai: phải nói là dung lượng tải về hơn gấp đôi firefox và opera (18.6MB) Safari không có chức năng restore như firefox và opera.
Tiếp đến: nếu duyệt web mà để chế độ No image, nhấn chuột phải vô hình không hề có chức năng show image, muốn xem được hình này phải mở nó với tab riêng hay window khác.
Safari không có tính năng bảo mật an toàn, thêm một điểm ko hài lòng nữa là chức năng "Save as", không có nhiều chế độ lưu để chọn và nó chỉ lưu được trang web không hình.
Không có tùy chọn để cài đặt các plug-hoặc ít nhất là một đạo diễn một trang web để tải về các plug-in.
Cuối cùng, Safari cũng là trình duyệt yếu kém nhất trong xử lý HTML 5 và JavaScript. Nó cũng tải trang web nhiều ảnh hết 4,61 giây, đứng thứ tư sau Chrome, Opera và RockMel.
3 trình duyệt web Google chrome
Google chrome là 1 trình duyệt web miễn phí được phát triển bởi google. Đến tháng 6 năm 2011 trình duyệt này đã trở thành trình duyệt thông dụng thứ 3 trên toàn cầu chỉ sau firefox và Internet Explorer và chiếm khoảng 16.5% thị phần trình duyệt web thế giới. Ngày 21 tháng 5 năm 2012 google chrome chính thức vượt qua Internet Explorer và trở thành trình duyệt phổ biến nhất trên thế giới chiếm 32,8% thị phần trong khi đó Internet Explorer chỉ chiếm 31,7%. Như vậy nhìn vào những con số trên chúng ta đã biết được google chrome phải có những ưu điểm vượt trội so với những trình duyệt web khác thì mới phát triển nhanh trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin tới như vậy.
3-1 Tính an toàn: Chrome cung cấp 1 tùy chọn duyệt an toàn, đảm bảo tính riêng tư và có tên là Incognito. Bạn có thể mở 1 kiểu cửa sổ đặc biệt và không lưu hoặc ghi bất cứ thứ gì chúng ta thực hiện trên đó vào máy tính. Không giống như internet Explorer cửa sổ Incognito được cách ky với phần còn lại của trình duyệt web nên chúng ta có 1 cửa sổ riêng mở kế bên cửa sổ thông thường và hoạt động độc lập với nhau. Các add-on mà chrome chỉ truy cập và xử lí các thong tin nằm trong trình duyệt chứ không thể dòm ngó tới các thong tin nằm trong các khu vực khác trong máy tính người dung.
Kiến trúc đa xử lí cho phép bảo vệ tránh được các trang web xấu hoặc ứng dụng làm hỏng trình duyệt do mỗi tab, cửa sổ, plug-in đều chạy trong chính môi trường riêng.
3-2 tốc độ nhanh cùng nhiều cửa sổ mới trên trang chủ:
Sử dụng nền tảng đa xử lí nên 1 site chậm sẽ không ảnh hưởng ǵ tới cả phần c̣n lại trong tŕnh duyệt mà có thể kích 1 tab hay 1 cửa sổ mới.
3-3 tìm kiếm đơn giản: Tính năng quan trọng nữa của chrome là ommibox 1 thanh bar vạn năng trên đầu trình duyệt bạn có thể đánh vào 1 URL hau 1 thuật ngữ tìm kiếm và chrome sẽ đưa bạn đến đúng địa diểm mà không cần hỏi them bất cứ câu hỏi nào.
3-4, không gian của chrome khá rộng so với Internet Explorer hay 1 trình duyệt nào khác
3-5, kiểm soát các tab: Ta có thể kéo tab ra khỏi cửa sổ riêng của nó hay kéo và thả các tab vào các cửa sổ đang tồn tại để kết hợp chúng lại.
Ngoài ra người dung có thể thay đổi bề ngoài của trình duyệt, 1 số ứng dụng tiêu biểu như: Evemote, Angry Birds và Bastion không giống như Firefox sau khi cài đặt ứng dụng mở rộng này người dùng có thể sử dụng được ngay mà không cần khởi động lại trình duyệt.
nhược điểm
3-6 Sự non trẻ của google chrome: Đây là phiên bản đầu tiên của chrome nên những sai lầm vẫn còn và rủi ro cũng nhiều.
3-7 ít chuẩn hơn các trình duyệt thông thường: Do phát triển nó dựa trên webkit
3-8 chức năng history của chrome tỏ ra kém linh hoạt hơn so với Firefox. Chrome chỉ cung cấp 1 màn hình đơn giản và màn hình này hiển thị history từng ngày.
3-9 chrome không thể tự đóng mở những tab mà bạn đã mở trong lần làm việc ngay trước đó sau khi đã đóng ứng dụng.
4 Trình duyệt web Firefox
Mozilla không phải là một công ty phần mềm truyền thống. Mozilla là một cộng đồng toàn cầu tận tụy với việc xây dựng các công nghệ và sản phẩm phần mềm mã nguồn mở miễn phí
Ưu điểm: Firefox vẫn luôn là trình duyệt đứng đầu về khả năng hỗ trợ Add-ons và Extesion, bạn có thể tìm kiếm bất cứ tính năng mở rộng nào mà các trình duyệt khác đang có từ bộ cài đặt Extension của trình duyệt này. Bên cạnh đó, là sự tương thích với các trình tăng tốc Download cho phép bạn bắt link để tải nhạc và video một cách dễ dàng. Một trong những thay đổi nhanh và đáng kể hiện nay nhằm điều chỉnh bản thân trình duyệt với yêu cầu công nghệ mới nhất đó chính là HTML5, một nâng cấp sửa đổi tiếp theo của ngôn ngữ HTML đang hiện có. Phiên bản Firefox cũng đã làm cho nó trở lên dễ dàng đồng bộ hóa mật khẩu, Bookmark, các tùy chọn mở rộng khác.
Nhược điểm: Người dùng có thể cài đặt các Extension để tăng thêm sức mạnh cho trình duyệt, nhưng sau đó thì đã khiến cho Firefox hoạt động chậm chạp hơn đặc biệt là quá trình khởi động, hơn nữa giao diện cũng sẽ mất đi cái vẻ gọn gàng theo mặc định. Khả năng tương thích là không thường xuyên ngay cả với phiên bản Firefox 4 được cho là ổn định nhất. Trước hết, HTML5 đưa ra kết quả không được khả thi khi tải 1 trang web như Windows Live Mail chẳng hạn. Sau đó là vấn đề bộ nhớ, Firefox tiêu thụ một lượng bộ nhớ không hề nhỏ trên hệ thống của bạn để chạy nó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của các ứng dụng khác. Trên một số trang web không thể hiện thị ảnh và video khi duyệt bằng Firefox trong khi các trình duyệt khác thì vẫn hiển thị một cách bình thường.

5 trình duyệt web Internet Explorer
Internet Explorer 9 là phiên bản trình duyệt lướt web thế hệ mới vừa được hãng Microsoft giới thiệu.
Ưu điểm: IE9 ngay sau khi ra mắt, nó được cho là khởi động nhanh hơn bất kỳ trình duyệt nào khác, không những thế mà tốc độ tải trang khá nhanh cùng với một giao diện rất thân thiện với người dùng. Đặc biệt, khả năng đồ họa và sự tăng hiệu lực trong IE9 là không thể bỏ qua, cụ thể là nó đã tận dụng tối đa sức mạnh phần cứng của máy tính để nâng cao khả năng hiển thị Văn bản, Video, hình ảnh và các yếu tố đồ họa khác. Ngoài ra thì bộ máy JavaScrtips cũng được cải tiến đáng kể, IE9 còn thay đổi không gian tab mặc định và cung cấp một kinh nghiệm duyệt web hiệu quả hơn với mức tiêu thụ bộ nhớ đến mức thấp nhất có thể. Một ưu điểm nữa là bạn có thể thấy rằng việc cài đặt IE9 là nhanh hơn nhiều so với IE 7 và 8 trước đó, khả năng tương thích tốt với các trình duyệt khác được cài đặt vào cùng hệ thống.
Nhược điểm: Nhược điểm lớn nhất của trình duyệt này là khả năng hỗ trợ các Extension không phong phú như các trình duyệt khác, hơn nữa IE 9 cần phải làm rất nhiều việc trước khi nó có thể kết hợp các Add-on hữu ích của các đối thủ cạnh tranh. Tương tự như vậy, dù được cho là nhẹ nhành hơn các phiên bản trước đó nhưng thời gian tải trang web là lâu hơn so với Firefox và Opera. Bên cạnh những cải tiến gần đây thì IE 9 cần phải kết hợp với những thay đổi đáp ứng nhu cầu người dùng để có một thị phần trình duyệt lớn hơn.

IV- Thị phần các trình duyệt web trên thế giới :

Tính đến trước 07-2012
Thị phần người dùng của các trình duyệt web là số phần trăm số người sử dụng một trình duyệt web đặc thù nào đó để duyệt một hoặc một nhóm các website. Ví dụ, khi nói Internet Explorer chiếm 66% thị phần người dùng, có nghĩa là các phiên bản của Internet Explorer được 66% số người dùng để truy cập vào một tập hợp các website cho trước.
Thông thường, xâu chỉ điểm người dùng (user agent) được dùng để xác định trình duyệt nào đang được người dùng sử dụng.
a) Nguồn Net Applications:


Internet
Explorer
Firefox
Chrome
Safari
Opera
Other

05/2011
54.28%
21.71%
12.52%
6.54%
2.01%
2.93%

06/2011
53.68%
21.68%
13.11%
6.80%
1.70%
3.02%

07/2011
52.72%
21.47%
13.49%
7.37%
1.62%
3.33%

08/2011
51.59%
21.03%
14.46%
7.71%
1.58%
3.62%

09/2011
50.97%
21.06%
15.17%
8.03%
1.58%
3.18%

10/2011
49.58%
21.20%
16.59%
8.54%
1.49%
2.59%

11/2011
48.95%
20.58%
16.90%
8.35%
1.45%
3.77%

12/2011
47.76%
20.09%
17.58%
8.67%
1.55%
4.35%

01/2012
48.16%
18.97%
17.20%
9.27%
1.54%
4.87%

02/2012
48.92%
19.35%
17.48%
9.28%
1.60%
3.37%

03/2012
49.82%
19.00%
17.17%
9.09%
1.51%
3.41% b) Nguồn StatCounter:


THỐNG KÊ THỊ PHẦN SỬ DỤNG TRÌNH DUYỆT WEB TRÊN THẾ GIỚI


Internet
Explorer
Firefox
Chrome
Safari
Opera
Khác

04/2011
44,52%
29,67%
18,29%
5,04%
1,91%
0,57%

05/2011
43,87%
29,29%
19,36%
5,01%
1,84%
0,63%

06/2011
43,58%
28,34%
20,65%
5.07%
1.74%
0.61%

07/2011
42,45%
27,95%
22,14%
5,17%
1,66%
0,63%

08/2011
41,89%
27,49%
23,16%
5,19%
1,67%
0,61%

09/2011
41,66%
26,79%
23,61%
5,6%
1,72%
0,62%

10/2011
40,18%
26,39%
25%
5,93%
1,81%
0,69%

11/2011
40,63%
25,23%
25,69%
5,92%
1,82%
0,71%

12/2011
38,65%
25,27%
27,27%
6,08%
1,98%
0,75%

01/2012
37,45%
24,78%
28,4%
6,62%
1,95%
0,79%

02/2012
35,75%
24,88%
29,84%
6,77%
2,02%
0,73%

03/212
34,81%
24,98%
30,87%
6,72%
1,78%
0,82% Sau khi vượt qua IE để trở thành trình duyệt có thị phần lớn nhất toàn cầu trong 7 ngày, vị trí này của Chrome tiếp tục được củng cố vững chắc khi StatCounter cho biết trình duyệt của Google đã dẫn đầu trong suốt tháng 5.

Thị phần của Chrome đã vượt qua IE trong tháng 5. Ảnh: StatCounter.
Theo đó, hiện Chrome đang nắm giữ 32,43% thị trường trình duyệt, IE ở ngay phía sau với 32,12%, Firefox về vị trí thứ 3 với 25,55% thị phần. Như vậy, 6 tháng sau khi vượt qua Firefox để chiếm vị trí thứ 2, Chrome đã trở thành trình duyệt đầu tiên "đá" IE khỏi ngôi vị trình duyệt phổ biến nhất toàn cầu.
Tuy nhiên kết quả thống kê này có sự mâu thuẩn khá lớn với báo cáo của Net Applications, có thể do cách thức lấy dữ liệu của hai hãng khác nhau.
Tuy nhiên, con số mà Net Applications đưa ra cho thấy, IE vẫn dẫn đầu với 54% thị trường trình duyệt. Ảnh: Net Applications.
Dù sao chăng nữa, cả StatCounter lẫn Net Applications đều có điểm chung trong báo cáo là thị phần của IE liên tục giảm và Chrome liên tục tăng. Đây là thành công lớn của trình duyệt non trẻ này.
Tính đến 07-2012
Mới đây, hãng khảo sát web StatCounter đã công bố kết quả thị phần của các trình duyệt trong tháng Bảy, qua đó cho thấy Google Chrome tiếp tục vượt mặt Microsoft Internet Explorer (IE) với thành tích ấn tượng.
Theo StatCounter, trong tháng Bảy, trình duyệt của Google đã giành được gần 34% thị phần, trong khi với IE, tỷ lệ này chỉ là 32%.
Chrome lại dẫn đầu thị phần trình duyệt trong tháng 7. Trong khi đó, Mozilla Firefox tiếp tục đi theo xu hướng sụt giảm thị phần, dù mức tụt chậm song lại rất đều đặn qua các tháng.
Theo StatCounter, trình duyệt “Cáo lửa” có thị phần 24% trong tháng Bảy vừa qua, giảm đi so với mức 28% của cùng kỳ năm ngoái.
Ngoài ra, những trình duyệt khác tỏ ra không có nhiều thay đổi đột phá, như Safari của Apple hay Opera, với mức thị phần khá ổn định qua thời gian.

IV- Thị phần các trình duyệt web tại Việt Nam :

Place.vn lấy thống kê về trình duyệt của hơn 150.000 visitor mới nhất dùng để truy cập vào trang web http://www.place.vn/. Place.vn là mạng chia sẻ địa điểm, không dành riêng cho đối tượng người dùng nào, và 150.000 là con số đủ lớn, nên mình tin rằng sẽ là 1 mẫu tốt để làm thống kê. Và đây là kết quả:
Kết quả trên cho thấy Firefox hot nhất ở Việt Nam, với hơn 40% thị phần, bỏ khá xa các đối thủ còn lại. Chrome và IE có thị phần gần bằng nhau, mặc dù Chrome nhỉnh hơn chút ít. 3 ông lớn này đã chiếm tới 90.2% thị phần. Các đối thủ khác chia nhau gần 10% còn lại, trong đó nặng kí nhất là Opera Mini (trình duyệt cho di động) và Safari (trình duyệt cho các thiết bị của Apple).
Đấy là thị phần của các trình duyệt khác nhau, thế còn bản thân các trình duyệt, thị phần của các version khác nhau như thế nào?

Firefox 6 dẫn đầu với 27.14%, tiếp theo là Firefox 7 với 20.55%. Điều này chứng tỏ người dùng Firefox khá là chăm chỉ update phiên bản mới

Chrome xuất hiện trong thống kê với rất nhiều version khác nhau, và version càng cao thì chiếm thị phần càng lớn. Điều này cũng dễ hiểu, vì với chức năng tự động update phiên bản mới của Chrome, người dùng luôn có phiên bản mới nhất cài trên máy mình.

Tiếp theo là IE (Internet Explorer). IE 8 đi đầu với hơn 50% (trong tổng số người dùng dùng IE). Nguyên nhân có lẽ là do đa số người dùng đã dùng Windows 7, với IE 8 được tích hợp sẵn. Về vị trí thứ 2 là IE 7. IE 7 được cài sẵn trên Windows Vista, và có thể được update từ Windows XP. Thứ 3 là IE 6, với hơn 20%. Điều này chứng tỏ khá nhiều người dùng Việt Nam vẫn đang sử dụng hệ điều hành Windows XP (của 10 năm về trước :D). IE 9 về vị trí thứ 4, với chưa được 6%, chứng tỏ người dùng Việt Nam không mặn mà gì với trình duyệt mới nhất của Microsoft này.

Báu vật của đời tác giả Mạc ngôn

Báu Vật Của Đời Mạc Ngôn năm 1995 và ngay trong năm ấy được trao giải thưởng cao nhất về truyện. Tác phẩm này nhanh chóng trở thành một hiện tượng. Báu vật của đời khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua số phận của các thế hệ trong gia đình

Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Do Cách mạng Văn hóa, ông phải nghỉ học khi đang học dở tiểu học và phải tham gia lao động nhiều
năm ở nông thôn. Năm 1976, ông nhập ngũ. Năm 1984, trúng tuyển vào khoa văn thuộc Học viện
nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Năm 1988, ông lại trúng tuyển lớp nghiên cứu
sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, năm 1991 tốt
nghiệp với học vị thạc sĩ.
Hiện ông là sáng tác viên bậc Một của Cục Chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc. Nhà văn Mạc Ngôn từng được thế giới biết đến qua tác phẩm Cao lương đỏ. Bộ phim cùng tên do đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Canne năm 1994. Truyện dài Báu vật của đời (nguyên tác tiếng Hoa: Phong nhũ phì đồn) được xuất bản vào tháng 9

Tạo Ebook: Nguyễn Kim Vỹ

Nguồn truyện: vnthuquan.net



Báu vật của đời tác giả Mạc ngôn
Báu vật của đời tác giả Mạc ngôn


Báu Vật Của Đời Mạc Ngôn năm 1995 và ngay trong năm ấy được trao giải thưởng cao nhất về truyện. Tác phẩm này nhanh chóng trở thành một hiện tượng. Báu vật của đời khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua số phận của các thế hệ trong gia đình Thượng Quan.
Từ những số phận khác nhau, lịch sử được tiếp cận dưới nhiều góc độ, tạo nên sức sống, sức thuyết phục nghệ thuật của tác phẩm. có nhiều con đường để cảm thụ tác phẩm văn chương, vì vậy trước một hiện trượng văn học xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau âu cũng là điều bình thường, thậm chí còn làm phong phú thêm đời sống văn học. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin gởi đến bạn đọc Báu vật của đời của Mạc Ngôn, một trong những tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc hiện đại.





Báu vật của đời tác giả Mạc ngôn
Báu vật của đời tác giả Mạc ngôn




Lỗ Toàn Nhi: một người phụ nữ nông thôn Trung Quốc, năm 16 tuổi bỏ tục bó chân và lấy chồng là Thượng Quan Thọ Hỷ. Sau này Lỗ thị có 9 đứa con riêng, 8 gái và 1 trai.
Thượng Quan Thọ Hỷ: chồng của Lỗ Toàn Nhi, bị bất lực, không có khả năng sinh con.
Lai Đệ: con của Lỗ thị với ông chú dượng.
Chiêu Đệ: con của Lỗ thị với ông chú dượng.
Lãnh Đệ: con của Lỗ thị với anh chàng bán vịt dạo.
Tưởng Đệ: con của Lỗ thị với anh chàng bán thuốc rong.
Phán Đệ: con của Lỗ thị với lão Báo bán thịt chó.
Niệm Đệ: con của Lỗ thị với hoà thượng Trí Thông.
Cầu Đệ: con của Lỗ thị với tên lính thất trận
Cặp sinh đôi Ngọc Nữ và Kim Đồng: con của Lỗ thị với mục sư Malôa
..........
Các tay súng nâng súng lên, đợi khẩu lệnh cuối cùng. Tư Mã Khố nhìn những họng súng đen ngòm, trên mặt thoáng một nét cười băng giá. Một đạo hồng quang sáng rục trên đê, mùi đàn bà trùm lên tất cả. Tư Mã Khố la to:
- Ôi đàn bà mới là những người tốt nhất trên đời!
Đám đông đứng lặng như trời trồng. Lời hô của Tư Mã Khố tuy không hùng tráng nhưng nó lại xoáy vào tâm khảm mọi người. Đàn bà có tốt không? Có lẽ đàn bà là những người tốt, quả thực đàn bà là những người tốt. Nhưng suy cho cùng, đàn bà là những người không tốt!


Phan:Tám người đàn bà, tám phụ nữ , tám số phận tạo nên cuộc sống xoay quanh họ tạo nên tác phẩm có mùi tanh, màu đục, dính và nhớp nháp . nhưng khi đưa vào miệng quả thật rất ngon. nó đủ để lại hương vị rất khó quên và để tiêu hóa hết được cũng rất lâu. kể cả sau khi đã tiêu hóa xong.