Trang

9.12.25

ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI

ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI


...
Trong chú giải phân thế này, trong 16 thiền tuệ, trí phân biệt danh sắc và liễu duyên tuệ, có nghĩa là buổi đầu mình chưa biết đạo thì mình thấy rằng con chim con cá, ông A bà B, cái nhà chiếc xe. 

ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI
ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI


Đúng, chỉ bấy nhiêu đó thôi, nhưng khi mình biết đạo rồi, nhất là phải học giáo lý, đặc biệt là giáo A Tỳ Đàm. Mình học rồi mình mới thấy, à thì ra toàn bộ vũ trụ này và vô lượng vũ trụ khác, thì toàn bộ sự hiện hữu của tất cả chúng sinh và những thứ không phải chúng sinhnó chỉ nằm gọn trong 2 thứ thôi. 
Nếu không phải là Danh Pháp -  tức là tinh thần, thì nó chỉ còn lại Sắc Pháp -  tức là vật chất. 
Tinh thần ở đây -  Danh Pháp = tinh thần; tinh thần = 1 tâm vương + 52 tâm sở. 
Thể xác -  Sắc Pháp = Vật chất; Vật chất = 4 đại (đất, nước, lửa, gió) + 24 thứ vật chất đi cùng
Chỉ vậy thôi, nhớ bao nhiêu đó thôi. 
Có nghĩa là hành giả thấy toàn bộ vũ trụ này từ chúng sanh đến ngoài chúng sanh như cây cỏ, đất đá cũng không nằm ngoài 2 cái này (Danh Pháp và Sắc Pháp). 
Đối với loài chúng sinh thì nó gồm có danh có sắc -  gồm có tinh thần và vật chất. Những cái gì không thuộc về chúng sinh thì nó chỉ gồm vật chất. 
Nhưng vật chất đây là gì? Là 4 đại + 24 thứ kia. 
Đây là nói gọn không phân tích nha, không phải lúc nào cũng có đủ 28 đâu, có lúc thêm lúc bớt. Nhớ cái đó, nhưng mình nói tổng quát là như vậy. Cái gọi là vật chất thì maximum gồm có 4 đại + 24 thứ đi cùng, chỉ vậy thôi. 

Cái đó là biết như con vẹt, két, sáo, nhồng, cưỡng, cái biết này không có xài được gì hết, nó chỉ là cái nền cho hành giả tu tứ niệm xứ. 
Rồi thì hành giả đi vào đạo, hành giả sống chánh niệm, buổi đầu hành giả tu như em bé tập đi chập chững, đủng đỉnh vậy đó. 
Đi biết là đi, ngồi xuống biết là ngồi xuống, có người còn chi tiết hơn, cái mông chạm biết là mông chạm, cái gót chạm vào mông biết chạm, thẳng lưng biết rõ là đang thẳng lưng, sửa cái mặt cho nó ngay biết là mình đang ngửa mặt lên, biết mình đang nhìn về phía trước, biết mình đang khép mắt lại, miệng khép hờ, biết, biết rõ. 
Rồi, đây, đây, bắt đầu không điều khiển chỉ theo dõi. 
Đọc câu thần chú này, “không điều khiển, chỉ theo dõi; chỉ theo dõi, không điều khiển”, cái gì ta? Hơi thở. Cứ là nó vô đầy thì nó bèn có nhu cầu đi ra, khi nó ra hết ga thì nó bèn có nhu cầu đi vô. Khi nó vô đến mức nào đó, nó sẽ yên 1 lát, nó sẽ ngậm hơi trong đó, nó giữ hơi trong đó 1 ít thời gian rồi nó mới bắt đầu đi ra. 
Hành giả chỉ quan sát mà thôi, buổi đầu như vậy, lâu ngày với chánh niệm sâu dày, vững vàng, hành giả mới nhận ra thêm nhiều thứ khác, hành giả mới thấy rằng hơi thở trước không phải là hơi thở sau. 

Cái tâm biết hơi thở trước không phải là cái tâm của hơi thở sau, hành giả thấy rằng hơi thở là thân và tâm biết hơi thở là tâm. Thân tâm hồi nãy không phải là thân tâm bây giờ và lúc đó tự trong đáy sâu tâm thức của hành giả thấm thía được rằng, thì ra sự hiện hữu của mình chỉ là sự ráp nối, lắp ghép của mấy thứ phù du, thân thì lúc vầy lúc khác, tâm thì lúc vầy lúc khác. Lấy 2 thân tâm vô thường ấy cộng lại làm ra tấm thân lúc vầy lúc khác. Và cái thấm thía này, cái tiêu hóa này tự hành giả chứ không phải vay mượn từ kinh điển hay thầy bạn như trước đây nữa. 

Hành giả biết rõ cái này nè, cái hơi thở thuộc về Sắc Pháp, thuộc vật chất, mà cái tâm biết hơi thở này nó thuộc về Danh Pháp, thuộc về tinh thần. Thì cái biết này được gọi là cái trí phân biệt hiểu rõ cái gì là danh, cái gì là sắc. 
Cái trí thứ 2 là hành giả biết rõ cái nhân cái duyên tạo của Danh Sắc. Hành giả biết rõ đây nó đau, nó đang đau, nó muốn đổi tư thế, nó ngồi lâu nó muốn trở giò, nó muốn đứng lên, nó muốn từ kiết già chuyển qua bán già, hành giả biết rõ đây là khổ. Và hành giả biết khi mà đổi, vì nó khổ cho nên nó mới muốn -  muốn là tham, chính vì nó muốn đổi cho nên nó mới đổi, khi đổi được rồi nó bèn thoải mái, nó bèn an lạc, nó bèn thích thú. Hành giả biết rõ cái thích thú này có được do mình đổi oai nghi mà có. 

Như vậy cái gọi là hạnh phúc, đau khổ trong đời này nó vốn đắp đổi cho nhau do có đau khổ mới có hạnh phúc. Khi 1 đau khổ được giải quyết thì bèn có hạnh phúc và khi hạnh phúc biến mất thì bèn có cái đau khổ. Đau khổ đây là sự khó chịu. Cứ nhớ sự vắng mặt của đau khổ chính là hạnh phúc, sự vắng mặt của hạnh phúc chính là đau khổ. Khi vấn đề đau khổ được giải quyết ta bèn gọi cái giải pháp là hạnh phúc, và khi hạnh phúc nó không ở với mình nữa, nó bỏ mình đi thì ta bèn gọi cái giây phút đó là giây phút đau khổ. Làm ơn về ngồi lại coi có đúng như vậy không, về tu tập coi đúng như vậy không. Có nghĩa hạnh phúc chính là cái giây phút đau khổ đi mất, không còn nữa, chỉ vậy thôi. 

Hai ông này đắp đổi cho nhau và hành giả thấy được à thì ra do duyên khổ nó mới tạo ra ái, từ ái mới tạo ra cái thoải mái này nè. Cái thoải mái này, đây đây nó đang mất, chính cái chuyện nó mất nó sẽ tạo ra đau khổ. Như vậy hành giả thấy rằng do mất cái này mới có cái kia, do có cái kia nên mới có cái này. Thấy rằng do cái này sinh mới có cái kia, do cái kia diệt mới có cái này. 
Đó là Liễu Duyên Tuệ (liễu là cái thấy). Toàn bộ đời sống quý vị chỉ là vậy thôi. 

Tôi nói không biết bao nhiêu lần, không hề có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp cho đau khổ thôi quý vị.
...
Nguồn: Bài giảng Kinh Thập Thượng (Dasuttara Sutta) 1 Kalama tri ân bạn ngocthytran00 ghi chép 




===

ĐOẠN NGHI TỊNH, LIỄU DUYÊN TUỆ


Là khả năng hiểu biết về 12 Duyên Sinh, 24 Duyên Hệ, lộ Tâm, lộ Sắc để thấy được cái gọi là chúng sinh gồm có những gì và thế nào là sự luân hồi siêu đọa.

Thuật ngữ Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi (Đoạn nghi tịnh nằm trong hệ thống “Bảy loại thanh tịnh” (Satta Visuddhi) -  được giảng giải chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga), do ngài Buddhaghosa soạn dựa trên Aṭṭhakathā (chú giải Pāli của Majjhima NikāyaDīgha Nikāya). Nguồn gốc của “Đoạn Nghi Tịnh” xuất phát từ chính các kinh Pāli mô tả con đường tuệ quán -  đặc biệt là Kinh Rathavinīta (MN 24) và Kinh Saṃyutta Nikāya phần Vibhaṅga-saṃyutta.

1. Kinh Rathavinīta (MN 24)

Đây là văn bản gốc nói đến “bảy loại thanh tịnh”, trong đó Đoạn Nghi Tịnh là loại thanh tịnh thứ hai.
Đức Phật nói với Tôn giả Punna và Tôn giả Sariputta:

“Không phải vì giới mà thanh tịnh được cứu cánh,
mà vì nhờ giới nên được thanh tịnh tâm,
nhờ tâm thanh tịnh mà được thấy pháp,
nhờ thấy pháp mà vượt qua nghi,
nhờ vượt nghi mà biết đạo phi đạo,
nhờ biết đạo phi đạo mà đạt đến đạo tri kiến,
nhờ đạo tri kiến mà đạt đến tri kiến tịnh.”
(MN 24, Rathavinīta Sutta)

Từ đây, ngài Buddhaghosa hệ thống hóa thành bảy cấp độ:
1. Giới tịnh, 2. Tâm tịnh, 3. Kiến tịnh, 4. Đoạn nghi tịnh (Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi), 5. Đạo phi đạo tri kiến tịnh, 6. Hành tri kiến tịnh, 7. Tri kiến tịnh.

2. Nguồn Pāli trong Thanh Tịnh Đạo Luận -  Visuddhimagga, chương XVIII

Tại đây, ngài Buddhaghosa giải thích chi tiết:
“Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi nāma yaṃ nāmarūpaṃ paccayapariggahena vavatthapetvā sakkāyadiṭṭhikaṅkhānaṃ vūpasamo hoti.”
(Visuddhimagga XVIII.3)
Tạm dịch:
“Cái gọi là Đoạn nghi tịnh là khi hành giả phân biệt rõ danh -  sắc bằng cách quán xét các duyên, khiến cho các nghi hoặc về thân kiến (sakkāya-diṭṭhi) được lắng dịu.”


Đây là phần kinh -  luận trình bày chi tiết 12 chi duyên khởi, nền tảng cho tuệ vượt nghi:
“Avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.”
(Do vô minh duyên hành, do hành duyên thức… như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn.)
Khi hành giả thấy được chuỗi duyên này trong chính thân tâm mình, nghi về quá khứ và vị lai đều được đoạn trừ -  đây chính là Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi theo ngôn ngữ của Visuddhimagga.

4. Kinh Saṃyutta Nikāya -  Nidāna-saṃyutta (SN 12.65, Nagara Sutta)

Đức Phật mô tả quá trình chứng ngộ tương tự:
“Ví như người đi trong rừng tìm thấy con đường cổ, đi theo con đường ấy thấy một thành cổ, có tường cao, ao hồ, rừng cây... Người ấy báo lại với vua rằng: đây là thành cũ của vua xưa.”
Đức Phật kết luận:
“Cũng vậy, Ta thấy con đường cổ ấy -  đó là Thánh đạo tám ngành -  dẫn đến sự an ổn, giác ngộ, Niết-bàn.”
Sự “thấy con đường cổ” chính là trí tuệ vượt nghi, khi hành giả thấy duyên khởi không do ai tạo, chỉ là pháp vận hành. 

- Nguồn: Tổng hợp để tự học. Không có giá trị tham khảo.

Ghi chú: 132

#Tư #Giải #Tuệ





Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều