Search

5.11.16

Thang biến mất

Phanblogs - Này Chim vặn dây cót! - Kasahara May hét gọi tôi. Đang lơ mơ ngủ, tôi cứ tưởng giọng cô bé là ở trong mơ. Nhưng đấy không phải giấc mơ. Nhìn lên, tôi thấy khuôn mặt Kasahara May, nhỏ xíu xa tít. - Em biết anh đang ở dưới đó. Nào Chim vặn dây cót! Trả lời em đi!

- Anh đây, - tôi đáp.
- Trời ạ, anh làm cái gì dưới đó thế?
- Suy nghĩ, - tôi đáp.
- Em không hiểu. Sao lại phải chui xuống tận đáy giếng mới suy nghĩ được? Không có cách nào đỡ nhiêu khê hơn à?
- Làm cách này thì mới thật sự tập trung được. Dưới này tối, mát, lại yên tĩnh.
- Anh hay làm thế này sao?
- Không, không hay làm đâu. Cả đời anh chưa làm thế này bao giờ hết.
- Thấy có hiệu nghiệm không? Có dễ suy nghĩ hơn không?
- Anh chưa biết. Anh vẫn đang thử nghiệm mà.
Cô hắng giọng. m thanh đó vang to xuống dưới đáy giếng.
- Thôi được rồi, Chim vặn dây cót, anh có nhận ra là cái thang biến đâu mất rồi không?
- Có chứ, - tôi đáp. - Mới đây thôi.
- Anh có biết chính em đã rút thang lên không?
- Không, cái đó thì anh không biết.
- Thế thì anh nghĩ ai rút?
- Anh không biết. - tôi đáp. - Anh không biết nói thế nào, nhưng anh chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ rằng ai đó đã lấy thang đi cả. Anh chỉ nghĩ nó cứ thế mà biến mất thôi, nói thật đấy.
Kasahara May im lặng. Rồi, với vẻ thận trọng trong giọng nói, như thể cô ngờ rằng lời của tôi có chứa bẫy, cô nói:
- Cứ thế mà biến mất à. Hừm. Ý anh là sao, "cứ thế mà biến mất"? Rằng... tự nhiên mà nó... biến đi hay sao?
- Có thể.
- Này Chim vặn dây cót, nói ra chuyện này bây giờ thì nghe buồn cười, nhưng anh là tay kì quặc lắm cơ. Trên đời này chẳng có mấy ai kỳ quặc như anh đâu. Anh có biết không?
- Với anh thì anh không kỳ quặc đến thế, - tôi đáp.
- Thế thì cớ sao anh nghĩ cái thang tự nó biến đi được?
Tôi lấy cả hai tay xoa mặt, cố tập trung chú ý vào cuộc đối thoại này với Kasahara May.
- Chính em rút thang lên à?
- Dĩ nhiên là em rút. Đâu cần phải động não đến cỡ đó mới nghĩ ra được. Em rút đấy. Đêm em lẻn ra khỏi nhà, kéo thang lên.
- Nhưng tại sao?
- Sao lại không? Anh có biết đêm qua em sang nhà anh tới mấy lần không? Em muốn gọi anh đi làm với em như lần trước ấy. Dĩ nhiên là anh không có nhà. Rồi em thấy mẩu giấy anh để trên bàn bếp. Thế là em đợi, đợi mãi, không thấy anh về. Thế rồi em nghĩ chắc anh lại đến chỗ căn nhà bỏ hoang đây. Em thấy nửa cái nắp giếng bị giở ra, có thang dây thòng xuống. Thế nhưng em không nghĩ ra rằng anh lại đang ở dưới đó đâu. Em chỉ nghĩ chắc có một người thợ hay ai đó chui xuống giếng rồi để thang lại. Trên đời này có mấy ai khi muốn suy nghĩ thì chui xuống đáy giếng ngồi cơ chứ?
- Cái đó thì em nói đúng, - tôi nói.
- Đến đêm em lại chuồn ra khỏi nhà, qua nhà anh, nhưng anh vẫn chưa về. Khi đó em mới chợt nghĩ ra: có khi anh đang ngồi dưới đáy giếng ấy chứ. Anh ngồi dưới đó làm gì thì làm sao em biết được, nhưng anh vốn là một tay kỳ khôi lắm, em đã nói mà... Em liền tới chỗ cái giếng kéo thang lên. Em cuộc là làm anh hết hồn.
- Ừ, có.
- Dưới đó anh có gì ăn uống không?
- Có chút nước. Đồ ăn thì anh không mang theo. À, anh có ba viên kẹo chanh.
- Anh ở dưới đó bao lâu rồi?
- Từ gần trưa hôm qua.
- Chắc anh đói lắm.
- Ừ, cũng đói.
- Anh có muốn đái hay gì không?
Nghe Kasahara May nhắc, tôi mới nhớ ra rằng từ khi xuống đây tôi chưa đái lần nào.
- Không, - tôi nói. - Anh có ăn uống gì nhiều đâu.
- Này Chim vặn dây cót, anh có biết gì không? Anh có thể chết ở dưới đó nếu em muốn. Em là người duy nhất biết anh đang ở dưới đó, em cũng là người duy nhất giấu thang dây đi. Anh có hiểu không? Em chỉ cần đi khỏi đây thôi là anh rồi đời. Anh có thể la hét, nhưng không ai nghe thấy anh đâu. Không ai nghĩ là anh đang ở dưới giếng. Em dám cuộc là thậm chí không ai biết anh đi khỏi nhà nữa kia. Anh không làm cho công ty nào, vợ anh thì bỏ nhà đi rồi. Có thể rốt cuộc ai đó cũng sẽ nhận thấy anh mất tích và báo cho cảnh sát, nhưng tới khi đó thì anh ngỏm rồi, mà người ta cũng chẳng bao giờ tìm được xác anh.
- Em nói đúng lắm. Anh có thể chết dưới này tuỳ ý em.
- Đã biết vậy thì anh thấy thế nào?
- Sợ, - tôi đáp.
- Nghe giọng anh có sợ đâu.
Tôi vẫn đang xoa má. Đó là tay của tôi, má của tôi. Tôi không thấy được chúng trong bóng tối, nhưng chúng vẫn đang ở đây: thể xác tôi vẫn đang hiện hữu.
- Ấy là vì vẫn chưa thật sự ngấm được, - tôi nói.
- Với em thì có, - Kasahara May nói. - Em thấy hoá ra giết một ai đó lại dễ hơn người ta tưởng nhiều.
- Có lẽ còn tuỳ ở phương pháp.
- Dễ lắm mà! Em chỉ cần bỏ anh lại đây thôi. Em chả phải làm gì hết. Anh thử nghĩ đi, Chim vặn dây cót. Cứ thử hình dung anh sẽ khổ sở đến nhường nào ở dưới đó, chết dần chết mòn vì đói khát, trong bóng tối. Chết thế kinh lắm đấy.
- Em nói đúng lắm. - tôi bảo.
- Anh không thực sự tin em phải không hở Chim vặn dây cót? Anh vẫn nghĩ em không thể làm điều gì tàn ác đến thế.
- Anh không biết nữa, - tôi nói. - Không phải anh tin em làm được, cũng chẳng phải tin em không làm được. Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Điều gì cũng có thể. Anh nghĩ là nghĩ vậy.
- Em không nói về chuyện có thể hay không thể, - cô nói bằng giọng lạnh như đá. - Này, em có ý này. Em mới nảy ra thôi. Anh đã cất công leo xuống dưới kia để có thể suy nghĩ. Sao giờ em không giúp thêm một tí để anh có thể tập trung suy nghĩ còn tốt hơn nữa?
- Em định làm cách nào? - tôi hỏi.
- Cách này này, - cô vừa nói vừa đậy nửa nắp giếng đang mở lại. Giờ thì bóng tối là toàn bích.
Haruki Murakami
Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót