Search

22.6.13

Chiến tranh Việt Nam

Phanblogs Ngần này đạn bắn ra chỉ để hạ thủ một lính bắn tỉa Bắc Việt thì Mỹ thua là phải
Sau hơn 4 thập kỷ im lặng, giữ những tấm ảnh chiến tranh kinh hoàng cho riêng mình, cựu binh Mỹ có tên James Speed Hensinger đã chính thức cho công bố những hình ảnh mà ông ta đã chụp và lưu giữ được trong thời gian tham chiến trên chiến trường Việt Nam.

Xe bọc thép trang bị vũ khí chống máy bay M42 của quân đội Mỹ dùng hỏa lực nã điên cuồng vào đỉnh đồi, nơi có chiến sỹ bắn tỉa của quân đội Miền Bắc

Cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam - James Speed Hensinger đã tiết lộ những hình ảnh mà ông ta mô tả rằng chúng ghi lại khoảnh khắc lực lượng Mỹ đóng ở căn cứ có tên Phu Tai (Phú Tài) ở thành phố duyên hải Đà Nẵng dùng hỏa lực mạnh bắn vào các địa điểm nơi họ phát hiện ra một xạ thủ bắn tỉa của quân đội Miền Bắc Việt Nam đang hoạt động.

Theo lời cựu binh lính nhảy dù của Lữ đoàn không vận 173, đây là sự việc xảy ra và tháng 4/1970  (khi đó ông ta mới 22 tuổi).

James Speed Hensinger kể lại rằng lực lượng của ông ta phát hiện thấy hoạt động của 1 chiến sỹ bắn tỉa của quân đội Bắc Việt cách đó vài tối.

Pháo sáng được lính Mỹ bắn lên đỉnh đồi, cùng lúc đó, hỏa lực từ hai ụ súng máy M-60 bố trí trên hai tháp canh của căn cứ Phu Tai (vệt đạn đỏ bên trái) được lệnh nhả đạn không thương tiếc về phía chiến sỹ mà lính Mỹ gọi là Việt Cộng

Không đề cập đến việc chiến sỹ bắn tỉa của quân đội Bắc Việt có thiệt mạng hay không nhưng James Speed Hensinger nói rằng "anh ta đã chống trả quyết liệt bằng một khẩu AK-47 đầy đạn".

Sau khi bị bắn tỉa từ một ngọn đồi gần căn cứ Phú Tài - Đà Nẵng năm 1970, trong ảnh là tất cả hỏa lực của lính Mỹ bắn lên đồi nhằm tiêu diệt 1 chiến sĩ của ta. Những đường đỏ là đạn vạch đường cỡ .30 của súng máy hạng nặng M60 , đường sáng là đạn pháo 40 mm của pháo phòng không M42 Duster.
Tuy nhiên sáng hôm sau, dù đã đổ cả núi đạn lên đồi, lính Mỹ chỉ tìm thấy một vết máu cho thấy chiến sĩ của ta tuy bị thương nhưng đã rút lui thành công.


Ảnh: James Speed Hensinger - lữ đoàn dù 173










Tuy nhiên sáng hôm sau, dù đã đổ cả núi đạn lên đồi, lính Mỹ chỉ tìm thấy một vết máu cho thấy chiến sĩ của ta tuy bị thương nhưng đã rút lui thành công.




14.6.13

Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Phanblogs Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam?


Lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới- xã hội cộng sản chủ nghĩa.Đồng thời C.Mác và Ph. Ănghghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội cao; chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xóa bỏ…Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Sau này V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản


Theo các nhà kinh điển của CN Mác-Lênin, có 2 con đường quá độ lên CNXH.


Trực tiếp: đi lên CNXH từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao.


Gián tiếp: đi lên CNXH phát triển còn thấp hoặc những nước tiền tư bản.






Hồ Chí Minh đã chỉ ra Việt Nam thuộc loại hình quá độ gián tiếp.Đặc điểm HCM khẳng định lớn nhất khi nước ta bước vào quá độ là từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN -> đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn khó khăn phức tạp và chi phối tất cả những đặc điểm khác.


Bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được thể hiện tập trung ở mục tiêu của nó là nâng cao đời sống nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm làm sao cho dân ăn no, mặc ấm, được học hành, chữa bệnh, giải trí


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay:


1. Làm cho dân có ăn.


2. Làm cho dân có mặc.


3. Làm cho dân có chỗ ở.


4. Làm cho dân có học hành.


Rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy mục đích nâng cao đời sống cho nhân dân làm trung tâm chi phối mọi hoạt động kinh tế của Đảng và Chính phủ.


Trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, cũng như đối với việc nâng cao đời sống của nhân dân. Trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam là nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh!”.


Vào những năm đất nước bước vào giai đoạn chuẩn bị cho nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch dài hạn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”.


Từ năm 1945-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát triển kinh tế, phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.






Cuối cuộc kháng chiến (1953) Hồ Chí Minh viết tác phẩm Thường thức chính trị. Trong tác phẩm này Hồ Chí Minh chỉ ra 6 thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do): Một là, kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Hai là, kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Ba là, các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua bán, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội. Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã. Bốn là, kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. Năm là, kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. Sáu là, kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội.


Hồ Chí Minh cho rằng thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH


Nước ta là một nước lạc hậu, qua nhiều năm chiến tranh lực lượng sản xuất chưa phát triển, cần làm kinh tế nhiều thành phần để đảm bảo đời sống nhân dân, cung cấp kịp thời cho kháng chiến. Do đó tất yếu phải phát triển kinh tế nhiều thành phần.


Năm 1953, Hồ Chí Minh đã nói: Nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế tại vùng tự do. Đó là:


+ Kinh tế địa chủ, phong kiến bóc lột địa tô.


+ Kinh tế quốc doanh có tích chất XHCN


+ Kinh tế HTX tiêu thụ, HTX cung cấp, các tổ đổi công ở nông thôn có tính chất nửa XHCN


+ Kinh tế cá nhân của nhân dân và thợ thủ công mỹ nghệ


+ Kinh tế tư bản tư nhân


+ Kinh tế tư bản quốc gia (tư bản nhà nước)


Do vậy, mục tiêu ban đầu của 6 thành phần kinh tế đó là làm sao cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, làm cho dân được học hành.


Để duy trì 6 thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh đã đưa ra 4 chính sách mấu chốt:


+ Công tư đều lợi.


+ Chủ thợ đều lợi.


+ Công nông đều lợi.


+ Lưu thông trong ngoài.


Hồ Chí Minh nhất quán với quan điểm xây dựng, phát triển và sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta. Chính sách Người nêu đối với các thành phần kinh tế lúc này là: .


A.Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Cần phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên.


B.Các hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Cần phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã.


C.Kinh tế cá nhân, nông dân, thợ thủ công nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.


D.Tư bản tư nhân ,tư sản công thương, Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước


E.Tư bản nhà nước công tư hợp danh nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư bản đi theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức khác; Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.


Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại suốt thời kì quá độ là vì 2 lý do sau:


- Các thành phần kinh tế cũng là sự biểu hiện của các quan hệ sản xuất khác nhau.


- Khi chế độ xã hội đang trong quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nó đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất còn manh mún. Những mảnh vụn ấy của xã hội cũ sẽ được cải tạo chuyển dần lên CNXH.


Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ quá độ lên CNXH không kinh qua CNTB là quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, phức tạp, phải tiến dần từng bước lên CNXH. Cách mạng XHCN là nhằm xoá bỏ chế độ người bóc lột người ở nước ta nhằm đem lại đời sống ấm no cho dân ta. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người. Nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó khăn nhất. Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu công cuộc biến đổi xã hội cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn đánh giặc. Chúng ta không những phải đấu tranh với kẻ địch chống lại cách mạng XHCN, đấu tranh với nghèo nàn đói khổ, dốt nát… mà còn phải từ bỏ những thói quen, truyền thống lạc hậu, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến lên. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử mà ”Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài ”


Tư tưởng phát triển nhiều thành phần kinh tế của HCM ko chỉ đáp ứng kịp thời cho cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc mà còn là tư tưởng chiến lược về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta


Thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu dài của các thành phần kinh tế không xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng suốt những quan điểm mácxít của Hồ Chí Minh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ. Mặt khác với đường lối xây dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc có liên minh công nông trí thức làm gốc cùng tiến vào thời kỳ mới của dân tộc – xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, hoàn thành khát vọng của dân tộc: Độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc cho toàn dân. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nề kinh tế nhiều thành phần của HCM vẫn là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước






Tài liệu tham khảo :


1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Bộ Giáo dục và đào tạo. NXB Chính trị quốc


gia. H, 2011. Các trang 9-24.


2. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bộ Giáo dục và


đào tạo. NXB Chính trị quốc gia. H, 2011. Các trang 9-24.


3. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị


quốc gia. H, 2011. Các trang 9-24.


4. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo


trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin. NXB Chính trị quốc gia. H,


2003. Các trang 18- 19.


5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.


Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Các trang 88, 127.


10.6.13

Đền thờ Bác Hồ - Ba vì

Phanblogs
Ba Vì được coi là ngọn núi tổ của nước Đại Việt. Dãy núi Ba Vì có ba ngọn, đỉnh cao nhất là đỉnh Vua, cao 1.296m. Đỉnh giữa là đỉnh Tản Viên, cao 1.281m. Đỉnh thứ ba là đỉnh Ngọc Hoa, cao 1.120m. Trên đỉnh ngọn núi nổi tiếng nhất là Tản Viên có đền Thượng thờ Thánh Tản – một trong “tứ bất tử” theo tín ngưỡng của người Việt (Thần Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh). Còn trên đỉnh núi Vua cao nhất tọa lạc một ngôi đền thờ một con người, một nhân vật của lịch sử của thời đại – Đền thờ Bác Hồ.































6.6.13

Phân tích và làm rõ sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Phanblogs
Phân tích và làm rõ sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.Đảng ta đã vận dụng tư tưởng này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam như thế nào?
Tài liệu tham khảo :
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Bộ Giáo dục và đào tạo. NXB Chính trị quốc
gia. H, 2011. Các trang 9-24.
2. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bộ Giáo dục và
đào tạo. NXB Chính trị quốc gia. H, 2011. Các trang 9-24.
3. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị
quốc gia. H, 2011. Các trang 9-24.
4. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin. NXB Chính trị quốc gia. H,
2003. Các trang 18- 19.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Các trang 88, 127.


Bài làm :
Phần 1

Phân tích và làm rõ sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.

Để làm rõ được ý trên ta cần giải thích được tại sao trước Hồ Chí Minh nhiều nhà trí sĩ yêu nước Việt Nam cùng thời như : Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu vẫn đang trên đường tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc và vẫn chưa có kết quả ?
NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ
TIỆT NHIÊN ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ
NHƯ HÀ NGHỊCH LỖ LAI XÂM PHẠM
NHỮ ĐẲNG HÀNH KHAN THỦ BẠI HƯ
bài thơ thần của Lý Thường Kiệt
· Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành

quyết chí ra đi tìm đường cứu nước tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc, bên cạnh đó truyền thống văn hoá dân tộc là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói đây là yếu tố nội sinh để người tiếp thu, vận dụng tinh hoa văn hoá nhân loại và đến với chủ nghĩa Mác- Lênin.



· Hồ Chí Minh đã rút ra kinh nghiệm thất bại của các phong trào yêu nước


· Nếu như C.Mác bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác và Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tập trung bàn về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đây cũng chính là sự kế thừa, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Từ đó, lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc: con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ ghĩa xã hội

· Hồ Chí Minh tiếp cận những nhân tố về quyền con người trong “Tuyên ngôn độc

lập”1776 của nước Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền”1791 của cách mạng

Pháp: Quyền bình đẳng, Quyền tự do, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã

khái quát, nâng cao thành quyền dân tộc, xây dựng trên hai cơ sở, truyền thống dân

tộc và cơ sở thời đại: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc

nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. điều này được thể hiện rất rõ trong hai ý tưởng chủ chốt :

· Quyền dân tộc tự quyết – điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

· Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất đất nước - nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ( hàn gắn non sông về một mối dù phải đánh đổi tất cả “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến)

Phân tích về quan hệ giai cấp và truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã

khẳng định: Chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính là một

động lực lớn của các nước thuộc địa

“Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải chỉ là và chủ yếu là một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở từng nước chống lại giai cấp tư sản ở nước mình; không phải thế, đó sẽ còn là cuộc đấu tranh của tất cả các nước thuộc địa và tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế”.

Từ đó Người kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.

Hồ Chí Minh cũng khẳng định nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là độc lập tự do. Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu"

Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào Người nói: “Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kêt thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”

Thực tiễn đã chứng minh những luận điểm đó là hoàn toàn đúng đắn và Hồ Chí Minh là người đã sớm nắm bắt được điều đó và phát huy tính sáng tạo đưa dân tộc Việt Nam đến con đường giải phóng thành công.
Phần 2



Đảng ta đã vận dụng tư tưởng này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam như thế nào?

Dưới đây là một số phương thức đang được Đảng vận dung trong công cuộc đổi mới và thực tiễn tình hình mới ở nước ta. không khó để nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc trong đó

· Đảng đã đang và sẽ xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, XHCN

· Đảng đã cho thấy Đảng Cộng sản là một bộ phận hữu cơ, là hạt nhân lãnh đạo và là linh hồn của khối đại đoàn kết. Đoàn kết nội bộ Đảng là chỗ dựa, là cơ sở để đoàn kết dân tộc và khối đại đoàn kết dân tộc chỉ có thể xây dựng được khi đường lối cách mạng có mục tiêu, phương pháp phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số nhân dân.

· Ta cũng nhận thấy chính sách ngoại giao khôn khéo với các nước lớn như Mỹ, Nga , Trung dựa trên cơ sở không phụ thuộc, giữ vững độc lập dân tộc và quyền tự quyết

· Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng , đồng thời phải thực hiện tốt các chính sách đối với từng giai cấp, tầng lớp xã hội, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo.

· Coi trọng chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của các tầng lớp nhân dân, các vùng miền của đất nước, nâng cao dân trí.



· Coi trọng công tác vận động quần chúng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, làm cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ đường lối, quan điểm, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước để mọi giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, mọi cá nhân hành động một cách tự giác góp phần xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

· Đề cao cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch mưu toan phá hoại khối đại đoàn kết, gây mất ổn định chính trị, chống “diễn biến hoà bình”

· Phát triển phong trào thi đua yêu nước và học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh