Search

30.3.21

Mù lòa tác giả Jose saramago

MÙ LÒA Tác giả Jose Saramago

Một người đàn ông đang lái xe ô tô bỗng dưng hóa mù. Một người qua đường đưa ông ta về nhà cũng hóa mù theo. Người bác sĩ nhãn khoa khám cho người đàn ông bị mù đầu tiên cùng những người bệnh trong phòng chờ hôm ấy đều bỗng dưng chẳng nhìn thấy gì nữa ngoài một sắc trắng như “bơi giữa biển sữa”. Bệnh mù trắng như căn bệnh lây lan khắp nơi, khiến tâm lý người dân hoảng loạn.



Mù lòa tác giả Jose saramago
Mù lòa tác giả Jose saramago


Những người phát bệnh đầu tiên cùng những người có khả năng phát bệnh bị chính phủ tập trung lại một chỗ và giam trong một nhà thương điên, để ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh này. Họ bị cách ly hoàn toàn, bị những người có vũ trang canh gác, phòng khi họ chạy trốn. Và những ai có ý định hoặc bị ngờ là có ý định trốn đi đều bị bắn chết không thương tiếc.

Những con người văn minh là vậy khi bị nhốt vào đây bị đối xử vô cùng tồi tệ, và mọi cách hành xử văn minh của họ dần dần cũng mất đi theo. Họ đành tự tổ chức cuộc sống trong một cộng đồng mới không khác mấy so với xã hội loài người theo chủ nghĩa không tưởng vạch ra. Người sáng mắt duy nhất giúp đỡ họ là vợ của ông bác sĩ nhãn khoa, người đã nói dối là mình bị mù để “được” nhốt vào đây với chồng. Thế rồi, ngoài việc bị giam giữ, thiếu thốn đủ đường, đối mặt với tình trạng mất vệ sinh, thiếu đồ ăn, họ còn bị những kẻ mù côn đồ có vũ khí khác ức hiếp. Để tồn tại họ phải hy sinh mọi phẩm giá để nương tựa nhau mà sống, và có lúc không chịu nổi đè nén đã vùng lên để giành lấy công lý.

Căn bệnh mù tiếp tục lan ra ngoài những bức tường (của nhà thương điên). Trong khi chạy thoát khỏi một vụ cháy ở trong “nhà giam”, những người mù phát hiện ra các binh lính canh gác họ đều hóa mù hết nên giờ đây không ai cản họ trở lại với cuộc sống bên ngoài nữa. Các nhân vật trung tâm gồm vợ chồng bác sỹ nhãn khoa và 3 nam 2 nữ khác cùng tạo thành một nhóm để “trở về”. Nhưng cả xã hội lúc ấy đã đảo lộn.

Đây quả là một cơn ác mộng thực sự: một xã hội thành thị bậc cao nhanh chóng trở lại trạng thái xã hội man rợ khi toàn bộ cơ sở hạ tầng của cộng đồng sụp đổ và sự ủng hộ lẫn nhau cũng như nghĩa vụ giữa mọi người bị phá vỡ. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ vào chiếm cứ nhà người kia, v.v… Và một lần nữa, bà vợ ông bác sỹ lại lèo lái giúp nhóm người của mình vượt qua cơn khủng hoảng này.

Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện, và hơn hết là một sự suy ngẫm về con người chúng ta, như lời bà vợ ông bác sĩ: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”.


Mù lòa tác giả Jose saramago. txt
Mù lòa tác giả Jose saramago. pdf
Mù lòa tác giả Jose saramago . docx


Điên đảo tưởng là gì

Phanblogs ĐIÊN ĐẢO #TƯỞNG LÀ GÌ ? #vijñāna #saṃjñā Ðiệu Bi có một quyển kinh nhật tụng rất quý. Một hôm tụng xong Ðiệu đi ngủ ngay quên cất quyển kinh đi.


Một chú chuột chạy qua thấy quyển kinh mừng rỡ:
- Má bầy trẻ mà được mó n này lót tổ thì còn gì bằng.
Thế là chú chuột na quyển kinh về một chiếc hang ở dưới gầm tủ. Bà chuột định xé quyển kinh ra lót tã cho sắp nhỏ thì bỗng nghe tiếng “meo meo” của ông mèo. Bà chuột liền lẩn mất.
Mèo đi đến gặp quyển kinh liền leo lên nằm khoanh đánh một giấc ngon lành. Ngủ xong, mèo vươn vai, xoa bụng nói: chiếc chiếu này êm quá, mình ngủ một giấc ngon chi lạ! Và mèo bỏ đi.
Con lu lu đang đi chơi thơ thẩn, bỗng thấy quyển kinh bèn tha tuốt ra vườn, nghĩ bụng: “Mình đem cái này ra kiếm con Nô, hai đứa chơi trò ném banh mới được.”
Chơi chán, Nô và Lu bỏ quyển kinh giữa đường. Cu Bình đi học về bắt được reo: “A! Mình có giấy dán diều và xếp ghe chơi rồi.”
Thế là quyển kinh được dán thành con diều bay lên trời, xếp thành ghe trôi bềnh bồng trong mương nước.
Một phần còn lại, được lũ mối xé nhỏ ra, khênh về tổ, nấu nướng và ăn tiệc mừng sinh nhật của mối chúa.
Điên đảo tưởng là gì
Điên đảo tưởng là gì


Em thân mến!

Chỉ có quyển sách thôi mà Ðiệu Bi gọi là kinh nhật tụng, chú chuột cho là đồ lót ổ, con mèo dùng như một chiếc chiếu, chó Lu đem làm đồ chơi, cu Bình dán thành con diều và lũ mối thấy đó là món ăn khoái khẩu. Tại sao thế?


Ðức Phật dạy rằng, tùy theo từng biệt nghiệp của chúng sanh mà mỗi kẻ có một lối nhìn kiến chấp, quan niệm về vạn hữu hoàn toàn khác nhau. Và điều rắc rối nhất ai ai cũng cho rằng quan điểm và cách sử dụng của mình là hay nhất, thông minh nhất, hợp lý nhất v.v…
Và đó cũng chính là điều điên đảo nhất của chúng ta. Có phải thế không?


Trích: Hư Hư Lục
Nguồn ảnh: https://pxhere.com

CẮT GIẢM NHÂN SỰ HOẶC GIẢM LƯƠNG TẤT CẢ ĐỂ CỨU CÔNG TY, BẠN CHỌN CÁCH NÀO?

CẮT GIẢM NHÂN SỰ HOẶC GIẢM LƯƠNG TẤT CẢ ĐỂ CỨU CÔNG TY, BẠN CHỌN CÁCH NÀO?

1. Giảm lương tất cả:

- Ưu điểm: Giàu tình thương vì mỗi người giảm một xíu nhưng tất cả cùng sống với nhau.
- Khuyết điểm: Kéo tuột cảm hứng của những người đang làm việc đầy hiệu quả, nhiệt tình, trách nhiệm, cày bất kể ngày đêm để giúp công ty vượt qua giông bão. Không phải họ không thương người khác hay ích kỷ, họ cảm thấy bị đánh đồng với những người làm việc chơi chơi, hết giờ rồi về. Cảm thấy không hài lòng khi phải chia sẻ với những người họ thấy "Không xứng đáng".
- Điều này nghĩa là giải pháp này chỉ có tác dụng tốt khi tất cả có thái độ chiến đấu như nhau. Chỉ cần lọt vô vài thành viên tào lao, làm việc xìu xìu, không hòa nhập với phần còn lại thì mang lại tác dụng ngược ngay. Thay vì vượt bão thì thuyền lại đắm nhanh hơn.

2. Cắt giảm những cá nhân có thái độ không tốt, không hòa nhập, thiếu trách nhiệm và không chịu ra sức chèo chống với công ty.

- Khuyết điểm: Có vẻ bất nhẫn vì giờ sa thải họ, họ không tìm được việc thì quá tội. Câu hỏi đặt ra là "Họ có thấy tội ông/bà chủ đang gồng gánh, vay mượn để cứu tất cả không khi cứ làm việc cà lơ phất phơ, vô trách nhiệm ?
Họ có thấy tội những người đồng đội đang vắt sức ra chiến đấu hay không khi cứ thoái thác công việc, hết giờ là về ?". Ở vai trò HR, chúng ta nhận lương của người ta thì phải nghĩ cho họ nữa chứ không phải chỉ biết nghĩ cho nhân viên. Hãy cân bằng.
- Ưu điểm: Giữ được mức thu nhập tốt cho những người xứng đáng, giữ lửa và hiệu suất làm việc của họ để nâng cao cơ hội vượt bão cho doanh nghiệp.
- Nếu chọn giải pháp này hãy làm thật nhanh, gọn, lẹ. Thay vì theo thủ tục bình thường là bàn giao việc trong 30 ngày, hãy cho bàn giao thật nhanh rồi cho những người thuộc diện "thanh lý" ở nhà ngay. Thời gian còn lại vẫn cứ trả lương cho xong thủ tục.
Tại sao lại làm thế ? Thái độ làm việc vốn không tốt, lại bị sa thải thì càng ngồi trên công ty sẽ càng lan truyền tiêu cực. Đừng vì tiếc vài đồng, thấy cho ở nhà phải trả lương mà bắt lên công ty làm gì vì cái giá phải trả sẽ nặng hơn.
CẮT GIẢM NHÂN SỰ HOẶC GIẢM LƯƠNG TẤT CẢ ĐỂ CỨU CÔNG TY, BẠN CHỌN CÁCH NÀO?




3. Cắt giảm ai ?

- Những nhân viên chăm chăm hết giờ rồi về, không hợp tác, không gồng gánh chung với đội ngũ, thiếu trách nhiệm, thiếu cam kết và gắn kết.
- Những nhân viên tiêu cực, bàn lùi, than vãn khi phải làm thêm việc ngoài chuyên môn.
- Những nhân viên không đa năng hoặc không có gì nổi trội, có thể tuyển lại dễ dàng sau khi hêt dịch.
- Những nhân viên có mức lương quá cao, vượt khả năng chi trả của công ty trong giai đoạn này. Thà cắt giảm còn hơn sau này nợ lương sẽ bị mang tiếng xấu hơn.
* Vốn dĩ đa số CEO Việt đã không nhận thức được HR quan trọng như thế nào, coi HR là Osin hành chính. Do đó nếu HR không thể hiện được vai trò giúp ông/bà chủ vượt bão trong lúc này thì HR sẽ bị cắt trước. Ghi điểm, thay đổi nhận thức của CEO hay lên dĩa tùy thuộc vào cách HR thể hiện trong lúc này.
Tái bút,
Thợ sửa ông nước kiêm tổ chức Team Buiding để Building Team.
P/S: Các em ngày thường thích ra vẻ mình giỏi, không coi trọng sếp và đồng nghiệp, thiếu trách nhiệm, không chịu học thêm cái gì mới sau khi tan sở, không đa năng, không có gì nổi trội, hay đổ lỗi mà chưa "Thất Nghiệp" hãy thay đổi còn kịp.
Mấy đứa bị sa thải, thất nghiệp đã sáng mắt rồi. Hãy nhớ "Các em không giỏi như mình tưởng đâu" nhé.
Tác giả: Nguyễn Thanh Phong
nguồn ảnh: freepik.com

Chữ Nhẫn được kết hợp bởi bộ đao (刀 ) ở trên và bộ tâm (心) ở dưới

Chữ Nhẫn được kết hợp bởi bộ đao (刀 ) ở trên và bộ tâm (心) ở dưới. Người xưa lấy hình ảnh rất đơn giản ấy để nói lên đức tính nhẫn nại, chịu đựng của con người. 

Hiểu một cách nôm na là khi đao đè lên tim mình (có thể đến ứa máu), nhưng mình vẫn có thể chịu đựng để vượt qua... khi ấy bản thân bắt đầu rèn luyện được đức Nhẫn. Người xưa nói: Luyện tính "nhẫn" như lúc nào cũng có lưỡi dao đè lên người là vậy.
Chữ Nhẫn được kết hợp bởi bộ đao (刀 ) ở trên và bộ tâm (心) ở dưới




Có khi nhẫn để yêu thương Có khi nhẫn để tìm đường lo toan
Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để tìm đường lo toan
Có khi nhẫn để vẹn toàn
Có khi nhẫn để tránh tàn sát nhau
Nhẫn một chút sóng yên gió lặng
Lùi một bước biển rộng trời cao
Có khi nhẫn để xoay vần
Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa
Có khi nhẫn để vị tha
Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù
Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu
Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường
Có khi nhẫn để vô thường
Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai
Có khi nhẫn để lắng tai
Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng
Có khi nhẫn để bao dung
Ta vui người cũng vui cùng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi nhẫn để kiên trì bền gan
Có khi nhẫn để an toàn
Có khi nhẫn để rõ ràng đúng sai
Bạn bè quan hệ nào ai
Có khi nhẫn để khinh người trọng ta
Xem ra cũng khó đó mà
Chữ Tâm, chữ Nhẫn ngẫm ra cũng gần



"Nhẫn" có nghĩa là biết lắng nghe, biết tiếp thu ý kiến của người khác, để điều chỉnh hành vi.
"Nhẫn" là nhịn, sẵn lòng: nhẫn một tý để đỡ sinh chuyện, nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục.
Nhẫn nại: bền bỉ, chịu khó, chịu khổ, kiên trì theo đuổi đến cùng công việc đã đặt ra, nhẫn nại học tập, biết nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ trong rèn luyện.
"Nhẫn" còn có ý là chịu dằn lòng xuống để tránh bực tức, cãi vã: "Nhẫn nhịn nhiều chứ nếu không thì sinh chuyện rồi"...
Ai cũng biết câu chuyện Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật, là tấm gương tiêu biểu cho đức Nhẫn ấy. Nói rộng ra hơn, trong cuộc sống hàng ngày khi vấp phải những khó khăn, nếu biết nhẫn nại, kiên trì ắt sẽ thành công.
Ý nghĩa của chữ NHẪN
Từ xa xưa, tổ tiên ta muốn các thế hệ con cháu luôn luôn nhớ và thực hiện đức tính "nhẫn" đã nghĩ ra cách, dùng kim loại chế tác một cái vòng xỏ vào ngón tay để luôn nhắc nhở ta, rèn luyện lời ăn tiếng nói, hành vi cử chỉ sao cho tốt đẹp, gọi đó là cái "nhẫn".
Thuở ban đầu, đời sống kinh tế còn thấp, nên nhẫn được làm bằng đồng thau, rồi tiến đến bằng bạc, và thế kỷ XX làm bằng vàng, hoặc nhẫn khảm đá quý.
Có điều đáng nói là, không ít người chỉ coi chiếc nhẫn là đồ trang sức, nhằm tô thêm vẻ đẹp, sự sang trọng cho con người, mà quên hẳn, thậm trí không biết đó là một thực thể, để nhắc ta luôn luôn nhớ đến việc thực thi đức "nhẫn" trong đời sống hàng ngày.
Đối với chiếc nhẫn cưới, cũng là thế!
"Chữ NHẪN trên đầu ngọn cây"
Câu này đã được nghe lâu lắm rồi trong quá khứ. Quả thật không ngoa. Trong nhà Phật, đây là một pháp môn rất thù thắng, không mấy ai dễ gì làm được. Sự nhẫn nhục có thể mất hết cả một đời người để luyện tập. Khi đạt được rồi thì mới thấy cái huyền diệu của nó, mới ngộ ra được cái gì gọi là "ta", và cái gì gọi là an lạc tư tâm và cho mọi người.
Có lúc, người ta cho rằng nhẫn nhịn là một sự thiệt thòi và nhục nhã…cũng đúng trong nhiều trường hợp. Tuy nhiên, sự nhẫn nhịn ở đây phải tùy trường hợp, cái mà gọi là tuy duyên. Đó đòi hỏi sự sáng suốt quyết đoán để đưa cái ích lợi cho mình và người…
Nếu người chẳng là ai và ta chẳng là ai, thể cái gì gọi là nhẫn, cái gì gọi là vinh, và cái gì gọi là nhục. Chỉ có những người trải nghiệm việc này thì tự cảm nhận được thôi.

Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp

Phanblogs Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp Theo các nhà khảo cổ thì Ai Cập là một trong những nền văn minh cổ nhất của nhân loại. Mặc dù ngày nay người ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc dân Ai Cập nhưng khoảng hơn bảy ngàn năm trước, người Ai Cập đã di cư đến vùng đồng bằng quanh lưu vực sông Nile rồi định cư tại đó. Truyền thuyết Ai Cập nói rằng tổ tiên của họ xuất phát từ một đại lục rất xa, nơi có nền văn minh rất cao nhưng vì biết nơi đó sẽ gặp nạn hồng thủy nên một số người đã đóng thuyền di cư đến vùng này. Có thể vì xuất thân từ một nền văn minh cao nên từ bảy ngàn năm trước, người Ai Cập đã có chữ viết, biết sử dụng toán học để xác định vị trí các tinh tú và xây cất những kiến trúc hùng vĩ như thế.




Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Các nhà sử học sắp xếp lịch sử Ai Cập ra làm 6 thời đại với 30 triều đại vua Pharaoh như sau:
1. Tiền sử Thời đại (Pre-historic Period): Khoảng 7000 năm đến 5000 năm trước Công nguyên. Đây là một thời đại mơ hồ với rất nhiều huyền thoại, truyền thuyết mà phần lớn các học giả người u cho là hoang đường, huyền hoặc, không đáng tin.
2. Nguyên sử Thời đại (Early Dynasties Period): Khoảng 5000 năm đến 4000 năm trước Công nguyên. Lúc đầu Ai Cập chia làm nhiều vùng, mỗi vùng có một sứ quân cai quản cho đến khi sứ quân Menes nổi lên đánh dẹp các sứ quân khác, thống nhất Ai Cập thành một quốc gia. Menes tự xưng là Pharaoh (Người Ở Nhà To Lớn), vừa là người vừa là thần linh, có quyền hành tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Pharaoh Menes chia xã hội thành những giai cấp để dễ bề cai trị. Giai cấp thứ nhất là Pharaoh và gia đình, nắm quyền chỉ huy cai trị. Giai cấp thứ hai là giáo sĩ, phần lớn là những người có học thức cao, có nhiệm vụ làm trung gian giữa thần linh và con người. Giai cấp thứ ba là quí tộc, gồm các quan lại và quân nhân, nắm quyền giữ an ninh, trật tự trong các địa phương. Những giai cấp sau như thợ thuyền, thương buôn, công nghệ và nông dân có bổn phận phục vụ cho những giai cấp trên. Pharaoh Menes lập triều đình gồm các quan thu thuế, xử kiện, giữ sổ sách và đặc biệt ghi chép các biến cố lịch sử lên bia đá nên từ đó lịch sử Ai Cập được đời sau biết đến.
3. Cổ sử Thời đại (Old Kingdom Period): Khoảng 4000 năm đến 3000 năm trước Công nguyên. Đây là thời đại rất đặc biệt với 6 triều đại và 32 Pharaoh mà vị nào cũng cho xây cất, kiến tạo những Kim Tự Tháp, đền đài, lăng tẩm hết sức hùng vĩ. Cũng trong thời đại này, người Ai Cập bắt đầu sử dụng thuyền buồm, bánh xe, nấu thủy tinh, luyện kim và xây các đập nước, kinh đào để dẫn nước vào ruộng.
4. Trung sử Thời đại (Middle Kingdom Period): Khoảng 3000 năm đến 2000 năm trước Công nguyên. Thời đại này gồm có 7 triều đại và hơn 100 Pharaoh. Đây là giai đoạn xã hội Ai Cập suy đồi nhiều vì đa số các Pharaoh chỉ lo hưởng thụ các tiện nghi vật chất chứ ít chịu phát triển hay xây dựng. Đây cũng là giai đoạn mà nền tôn giáo cổ Ai Cập thoái hóa thành các hình thức mê tín dị đoan nên việc sử dụng tà thuật, bùa chú rất thịnh hành. Nhiều người đã gọi thời đại này là thời đại của các giáo sĩ vì quyền hành của họ vượt xa Pharaoh. Hầu hết chủ trương tôn thờ Amun (Đa thần giáo) với các nghi thức thờ cúng, tế thần và giết nô lệ để chuộc tội.
5. Tân Sử Thời đại (New Kingdom Period): Khoảng 2000 năm đến 1000 năm trước Công nguyên. Thời đại này gồm 8 triều đại và 20 Pharaoh mà người nào cũng gây chiến với các nước láng giềng. Các nhà viết sử đã đề cao thời đại này như giai đoạn huy hoàng nhất lịch sử Ai Cập với các chiến công hiển hách, các đền đài lăng tẩm được xây cất to lớn vĩ đại hơn những triều vua trước. Hầu hết những Pharaoh thời này đều là những bạo chúa khát máu, chỉ trừ một Pharaoh duy nhất bị lịch sử chê trách là nhu nhược, hèn yếu vì đã từ bỏ truyền thống cũ để cổ xướng một sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử Ai Cập. Pharaoh Akhenaten đã từ bỏ việc thờ cúng thần Amun mà chủ trương tôn thờ Aten (Độc thần giáo) hay chân lý tuyệt đối trong vũ trụ.
Trong 17 năm cai trị của ông, Ai Cập không hề gây chiến tranh mà chỉ phát triển rất mạnh về phương diện nghệ thuật, văn chương, đặc biệt là thơ phú. Các nhà khảo cổ đã gọi Akhenaten là "Pharaoh thi sĩ" vì ông đã để lại nhiều bài thơ khắc trên bia đá, thạch trụ rất đặc biệt. Sau khi Akhenaten qua đời, các vị Pharaoh đời sau lại phục hồi việc thờ cúng thần Amun và gây chiến với các nước chung quanh. Triều đại Seti mở rộng biên giới Ai Cập ra khắp bán đảo Ả Rập. Triều đại Ramses tiếp tục công cuộc xâm lăng các nước láng giềng, thu hoạch rất nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ, mang về Ai Cập để xây cất các đền đài vĩ đại chưa từng có. Tuy nhiên cuộc chiến tranh kéo dài hàng trăm năm này đã mang lại một hậu quả rất khốc hại cho người Ai Cập. Vì đa số chỉ quen chém giết, cướp bóc chứ không còn biết xây dựng cho nên khi không còn kẻ thù nào để chinh phục, họ quay ra chém giết, bóc lột và tàn sát lẫn nhau khiến xã hội Ai Cập trở nên hỗn loạn, vô trật tự, suy yếu và theo thời gian trở thành mồi ngon cho Syria và Ba Tư. Đây cũng thời đại tự chủ cuối cùng của người Ai Cập vì trong suốt 2000 năm sau, Ai Cập hoàn toàn nằm dưới ách cai trị và bảo hộ của các quốc gia khác.
6. Ngoại thuộc Thời Đại (Domination Period): Khoảng gần 1000 năm trước Công nguyên cho đến cận đại. Giai đoạn này Ai Cập mất quyền tự chủ và bị đặt dưới ách cai trị của các cường quốc khác. Lúc đầu họ bị người Syria xâm lăng, chiếm đoạt phần lớn đất đai; sau đó Ai Cập lại bị Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và cuối cùng là các cường quốc u châu như Pháp và Anh xâm chiếm, cai trị. Mặc dù trên nguyên tắc, Ai Cập vẫn được duy trì chế độ quân chủ (có vua và triều đình), nhưng suốt thời gian mấy ngàn năm, hầu hết các nhà lãnh đạo Ai Cập chỉ là những vị vua bù nhìn, vô quyền, làm tay sai cho những thế lực ngoại bang. Nền văn hóa phong phú của họ bị thay thế bằng một thứ văn hóa ngoại lai, lúc đầu chịu ảnh hưởng Ba Tư, Hy Lạp; sau bị đồng hóa với văn hóa Ả Rập. Ngay cả chữ viết của Ai Cập cũng hoàn toàn bị thay thế bằng chữ Hy Lạp và chữ Ả Rập. Đầu thế kỷ 18, tiếng Pháp trở nên ngôn ngữ chính rồi qua thế kỷ 19, tiếng Anh được sử dụng trong các văn kiện, giấy tờ và ngay cả hiến pháp quốc gia. Năm 1952, tướng Gamal Nasser truất phế hoàng đế bù nhìn Farouk, lập chế độ Cộng hòa Ai Cập và trở thành vị tổng thống đầu tiên của xứ này. Kể từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến thế kỷ 20, Ai Cập mới thực sự giành được độc lập.

NHỮNG PHARAOH SAU AKHENATEN

Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Sau khi Akhenaten qua đời, Tể tướng Smenkere lên ngôi Pharaoh nhưng ông nầy chỉ cai trị được hai năm thì chết. Người con duy nhất của ông tên Tut khi đó mới 12 tuổi, lên ngôi lấy hiệu là Tutankhamun (Tut tôn thờ Amun). Điều này cho thấy chỉ một thời gian ngắn, các giáo sĩ phái Amun đã phục hồi ảnh hưởng và thế lực với triều đình. Trước khi chết, Pharaoh Smenkere chỉ thị cho Tut phải lấy Ankhense, con gái lớn của Akhenaten làm hoàng hậu và phong cho cô này tước hiệu là Akhenseamun (Akhen tuân phục Amun). Pharaoh Tutankhamun (thường được gọi là King Tut) cũng chỉ cai trị được 6 năm thì qua đời. Vì ông chưa có con nối dõi nên ngôi vị Pharaoh được truyền cho Tể tướng Horemheb.
Pharaoh Horemheb cai trị Ai Cập được 28 năm. Ông đặt ra một nền quân chủ pháp trị rất nghiêm khắc, áp dụng kỷ luật thép cho các trai tráng trong nước. Dưới sự lãnh đạo của Horemheb, Ai Cập đã có những lực lượng quân sự hùng hậu, thiện chiến hơn những Pharaoh đời trước.
Vị chỉ huy, tướng Seti, đã dẫn quân chinh phạt khắp nơi và nổi tiếng là một trong những vị tướng khát máu nhất lịch sử Ai Cập. Seti chủ trương phải tiêu diệt các tiểu quốc quanh vùng, bắt những người này làm nô lệ cho người Ai Cập. Người Do Thái, vì sống tại Palestine gần đó, đã trở thành những nạn nhân đầu tiên. Seti để lại câu nói bất hủ: "Nếu người Do Thái được tự do, người Ai Cập không thể ngóc đầu lên được".
Sau khi Pharaoh Horemheb qua đời, Seti đã giết luôn mười hai người con của Horemheb rồi tự xưng làm Pharaoh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, một tướng lãnh đã soán ngôi Pharaoh một cách công khai, không sợ lịch sử phê phán hay thần linh trừng phạt. Việc này cũng tạo ra một tiền lệ cho những đời vua sau đó. Triều đại Seti kéo dài được ba đời thì vị hoàng đế Seti đời thứ tư bị một tướng lãnh khác là Ramses giết chết.
Triều đại Ramses kéo dài được tám đời và được các nhà chép sử coi là triều đại vẻ vang nhất lịch sử Ai Cập. Các Pharaoh này đã liên tiếp gây chiến tranh với các nước chung quanh, chiếm đoạt rất nhiều tài nguyên và nô lệ để xây cất những đền đài lăng tẩm vĩ đại, chưa từng có. (Lịch sử ghi nhận, dưới sự lãnh đạo của nhà tiên tri Moise, người Do Thái được trả tự do vào đời Ramses thứ tư - Chương Exodus trong Kinh Thánh).
Sau triều đại Ramses, xã hội Ai Cập trở nên thoái hóa, hỗn loạn, vô trật tự vì các vua chúa và tướng lãnh không ngừng tranh chấp lẫn nhau. Không một vị vua nào cai trị được quá 4 năm. Có nhiều người chỉ lên ngôi được vài tháng đã bị giết. Triều đình hỗn loạn, quan lại tham những, giới quí tộc lo bóc lột, xã hội suy đồi, kinh tế kiệt quệ, kẻ mạnh đàn áp người yếu, dân chúng đói khổ lầm than nên chỉ ít lâu sau, Ai Cập trở thành miếng mồi ngon cho người Syria.
Dưới sự cai trị của Syria, phần lớn các đền đài, lăng tẩm của vua chúa Ai Cập bị đập phá và dân Ai Cập phải cam chịu cảnh làm nô lệ cho người Syria, một giống dân mà khi xưa họ vẫn khinh là man di mọi rợ. Ít lâu sau, người Ba Tư đánh đuổi người Syria, chiếm Ai Cập và đặt xứ này dưới ách cai trị của họ trong suốt 260 năm.
Khoảng 322 năm trước Công nguyên, Hoàng đế Alexander của Hy Lạp khởi binh đánh đuổi người Ba Tư và chiếm Ai Cập. Tuy nhiên đối với các nhà chép sử Ai Cập thì đây là một cuộc giải phóng chứ không phải xâm lăng. Sở dĩ người Ai Cập có cảm tình với Hy Lạp vì Hoàng đế Alexander không những thông hiểu phong tục, tập quán của Ai Cập một cách tường tận mà còn tỏ ra tôn trọng các truyền thống văn hóa, tôn giáo của xứ này. Có lẽ Hoàng đế Alexander sở hữu một kiến thức rộng về Ai Cập vì thày dạy học của ông là hiền triết Aristotle, vốn là môn đệ của môn phái triết học do một người Ai Cập tên là Sinuhe khởi xướng. Học trò môn phái này đều là những triết gia nổi danh của Hy Lạp như Socrates, Plato, Aristotle, Pythagore, Thales, Lycurge, Solon, Jamblicus, Horedotus, Epitetus v.v…
Vì người Ai Cập xem Alexander như một nhà giải phóng xứ này khỏi ách ngoại xâm nên các giáo sĩ Ai Cập đã phong cho ông làm Pharaoh Ai Cập. Tuy nhiên chỉ ít lâu sau, Alexander lại lên đường tiếp tục công cuộc chinh phục các xứ khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Syria, A Phú Hãn và Ấn Độ. Ông ban sắc lệnh đặt Ai Cập là đất bảo hộ, cho thiết lập một chế độ quân chủ tự trị nhưng bắt các Pharaoh Ai Cập hằng năm phải triều cống Hy Lạp. Không những thế, ông vẫn để một lực lượng quân đội lớn chiếm đóng xứ này để giám sát mọi việc nên chỉ ít lâu sau, nhiều tướng lãnh Hy lạp đã trở nên Pharaoh cai trị xứ này.
Khi Hy Lạp suy vong thì La Mã trở nên một thế lực quan trọng, kiểm soát toàn vùng Địa Trung Hải và xâm lăng Ai Cập. Lúc đó trong triều đình Ai Cập đang có việc tranh chấp ngôi vị Pharaoh. Công chúa Cleopatra sử dụng nữ sắc để lung lạc Hoàng đế Ceasar của La Mã khiến ông này phong cô làm Pharaoh.
Sau khi Caesar qua đời, Hoàng đế La Mã Augustus ban sắc lệnh sáp nhập Ai Cập thành một phần của đế quốc La Mã. Một lần nữa, người Ai Cập lại nai lưng ra phục vụ các triều vua La Mã cho đến khi đế quốc La Mã suy vong thì người Ả Rập xâm chiếm Ai Cập, đặt ra chế độ Caliphs để cai trị xứ này.
Từ đó hết quốc gia này đến quốc gia khác thay phiên nhau chiếm đóng, đô hộ Ai Cập cho đến thế kỷ 20, người Ai Cập mới thực sự giành lại chủ quyền.

CHỮ VIẾT AI CẬP

Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Từ 7000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã có chữ viết, một thứ chữ tượng hình rất phong phú. Các nhà khảo cổ đã tìm được những tài liệu khắc trên đá đề cập đến vị trí các tinh tú cũng như ảnh hưởng thời tiết trong việc cấy cày ghi khắc vào năm 6700 trước Công nguyên.
Khi Ai Cập bị Ba Tư, Hy Lạp và Ả Rập cai trị thì văn hóa xứ này bị pha trộn với các ảnh hưởng ngoại lai nên dần dần thoái hóa, suy đồi. Mặc dù tiếng nói còn được sử dụng trong một thời gian nhưng chữ viết Ai Cập đã bị thất truyền vào khoảng đầu thế kỷ thứ ba sau Công nguyên.
Sử gia Julius ghi nhận không một người Ai Cập nào còn đọc được chữ viết của dân tộc họ nữa mà chỉ sử dụng chữ Hy Lạp, La Mã hoặc Ả Rập. Vì thế đa số người Ai Cập không hiểu được những giòng chữ ghi khắc trong các đền đài, lăng tẩm, cổ mộ, bia đá, thạch trụ nên chẳng mấy ai biết gì về nguồn gốc cũng như gia sản văn hóa phong phú mà cha ông họ đã để lại. Có lẽ vì thế người Ai Cập đã chấp nhận văn hóa Ả Rập như văn hóa chính thức của họ và trong mấy ngàn năm dài, lịch sử và văn hóa Ai Cập chỉ là những huyền thoại mơ hồ được kể lại trong những câu chuyện truyền khẩu chốn dân gian mà thôi.
Năm 1798, Hoàng đế Napoleon đem quân xâm chiếm Ai Cập. Ông cho xây cất những pháo đài quanh vùng duyên hải để ngăn ngừa tầm hoạt động của hải quân Anh. Trong lúc xây cất pháo đài nằm cạnh hải cảng Rosetta, Trung sĩ Pháo binh Boussard đã tìm được một khối đá màu đen trên có ghi khắc 54 giòng chữ Ai Cập và một bản dịch bằng tiếng Hy Lạp phía dưới. Chính nhờ thế mà nhà khảo cứu cổ ngữ Champollion mới nghiên cứu, sắp đặt lại các mẫu tự Ai Cập và phục hồi văn tự đã thất truyền này.
Qua công trình nghiên cứu của Champollion, các nhà khảo cổ đã dựa theo đó để phiên dịch các chữ viết ghi khắc trong các đền đài, cổ mộ, thạch trụ và phục hồi các chi tiết lịch sử Ai Cập cũng như góp phần phục hưng nền văn hóa phong phú này. Các công cuộc nghiên cứu về văn hóa Ai Cập bắt đầu khoảng cuối thế kỷ 19 qua sự khai quật các ngôi cổ mộ và đến nay đã hé mở cho chúng ta thấy được một phần về nền văn minh đã bị vùi lấp dưới lớp cát sa mạc này.