Search

Hiển thị các bài đăng có nhãn sách hay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn sách hay. Hiển thị tất cả bài đăng

31.8.25

MƯA ĐỎ TÁC GIẢ CHU LAI

MƯA ĐỎ TÁC GIẢ CHU LAI


24 tuổi. Chết
19 tuổi. Chết
20 tuổi. Chết
21 tuổi. Chết
16 tuổi. Chết
34 tuổi. Chết
...
Bác ơi... Đáy sông không phải chỉ có đồng đội bọn con nằm đâu mà còn có cả lính phía bên kia nữa, nhiều lắm. Mỗi mét vuông đất tại Thành cổ Quảng Trị là một mét máu. Để đổi lấy hoà bình thống nhất Đất Nước.

MƯA ĐỎ TÁC GIẢ CHU LAI
MƯA ĐỎ TÁC GIẢ CHU LAI




https://drive.google.com/file/d/1nOvq-IEiJY0NO5dblvpTcjbBlX5VNNA6/view?usp=sharing




Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

29.5.25

Thiền sư Sunlun Sayadaw. Những vị Thiền sư đương thời

Thiền sư Sunlun Sayadaw: Thiền sư Sunlun Sayadaw có được tên gọi như vậy là vì ngài đến từ hang động tu viện làng Sunlun ở gần Myingyan ở miền Trung Miến Ðiện. 


Ngài sinh ra vào năm 1878 và được đặt tên là U Kyaw Din. Lớn lên ngài được gởi đến một trường đạo, nhưng ở đó ngài học ít thôi. Lúc mười lăm tuổi ngài vào làm việc như một cậu bé văn phòng. Ơủ văn phòng đại biểu chánh quyền quận ở Myingyan. Người kết hôn với một thiếu nữ Ma Shawe Yi ở cùng làng. Năm ba mươi tuổi, ngài khước từ chức vụ của mình và trở về ngôi làng quê để làm nông dân. Ngài thấy rằng cánh đồng của mình thì phì nhiêu trong khi đó thì những cánh đồng khác thì thất mùa. Năm 1919 có một nạn bịnh dịch, ngôi làng của ngài vẫn thịnh vượng. Người Miến Ðiện tin tưởng rằng nếu tài sản của ai đó có được một cách mau lẹ, người ấy sẽ chết sớm. Lo sợ vì tài sản của mình, nên U Kyaw Din hỏi ý kiến một nhà chiêm tinh. Ông ta đã bảo rằng một chúng sinh có hai chân sẽ từ bỏ nhà của ông sớm. Ðiều đó ngụ ý nói là ngài sẽ chết. 

Trong nỗi niềm lo sợ to tát đó, U Kyaw Din quyết định hoàn thành một công việc phước thiện to lớn. Ngài dựng một rạp trước nhà của ngài và mời dân làng đến ăn ba ngày. Vào ngày thứ ba, một du sĩ khổ hạnh không mời mà xuất hiện trong buổi tiệc. Du sĩ bắt đầu nói về thực hành thiền quán và khi nghe những danh từ này, U Kyaw Din trở nên xúc động mạnh. Ngài không thể ngủ được đêm đó. Ngài muốn thực hành nhưng ngại không dám nói vì bản thân thiếu hiểu biết kinh điển. Ngày hôm sau ngài hỏi du sĩ không biết có người nào không am tường kinh điển mà có thể tu pháp hành được không? Du sĩ trả lời rằng thực hành thiền quán không cần đòi hỏi kiến thức về giáo lý mà chỉ cần sự chuyên tâm và thích thú là đủ. Du sĩ dạy U Kyaw Din thực hành hơi thở vào và hơi thở ra. Thế là từ ngày hôm đó, bất cứ lúc nào có thời gian, ngài tức khắc niệm hơi thở. Mộảt hôm nọ ngài gặp một người bạn, ông bạn ấy bảo ngài rằng, trực tiếp thở vào và thở ra cũng chưa đủ; mà cần phải cảm nhận hơi thở ở chóp mũi nữa.

U Kyaw Din thực hành cảm nhận hơi thở. Thế rồi lúc đó sự thực hành của ngài trở nên mãnh liệt hơn, ngài cố nhận biết không những cảm nhận hơi thở mà còn cảm nhận tay cầm dao khi ngài chẻ củi, cảm nhận sợi dây thừng trên tay khi ngài quay nước, cảm nhận bàn chân trên đất khi ngài đi. Ngài cố cảm nhận mọi thứ khi ngài làm. Lúc giữ trâu, ngài ngồi dưới gốc cây và thực hành chánh niệm hơi thở. Suốt thời gian thực hành, ngài bắt đầu nhìn thấy những ánh sáng màu sắc và những kiểu mẫu hình học. Ngài không biết chúng là gì, nhưng cảm thấy rằng đó là kết quả của sự thực hành. Ðiều đó động viên ngài rất nhiều và ngài bắt đầu thực hành chuyên cần hơn. Nhờ thực hành chuyên chú, đôi khi những cảm thọ rất khó chịu, nhưng chúng không cản trở ngài được. Ngài tin rằng chúng là kết quả của sự thực hành, và nếu ngài muốn đạt được kết quả lớn hơn thì ngài sẽ phải khắc phục và vượt qua chúng. Từ đó ngài quyết tâm nỗ lực và phát huy chánh niệm để khắc phục những cảm thọ bất lạc và vượt đến giai đoạn cao hơn của sự thực hành.
Thiền sư Sunlun Sayadaw



Nhờ nhứt tâm nỗ lực, U Kyaw Din đắc được đạo quả Tu-đà-huờn – hương vị Níp-bàn đầu tiên – giữa năm 1920. Tháng sau, ngài đắc được đạo quả Tư-đa-hàm. Tháng thứ ba ngài đắc được đạo quả A-na-hàm. Ngài xin phép hiền thê để xuất gia; bà nhiều lần khước từ, nhưng sau đó bà đồng ý. Trước khi đi, U Kyaw Din sắp xếp cho việc đồng áng. Hướng dẫn cho hiền nội cách thức gieo trồng, trả tự do cho loài thú. Ðặt ách xuống một cội cây, ngài đi đến một tu viện trong làng, và cầu xin chư tăng ở đó chấp nhận ngài làm một vị Sa-di trong giáo hội. Sau đó, ngài tìm đến một hang động và tu tập chuyên cần. Cho đến tháng mười năm 1920, ngài đạt được đạo quả giải thoát cuối cùng A-la-hán. Sự thành đạt của ngài trong hàng ngũ chư tăng ai cũng biết đến và nhiều vị đến thử nghiệm ngài. Ngài là bậc giải thoát hoàn toàn, cho nên những câu trả lời của ngài giải tỏa những thắc mắc cho những ai tìm học. Cũng có nhiều lần, họ không đồng quan điểm với câu giải đáp của ngài, nhưng khi được đối chứng với kinh điển thì họ thấy lời nói của ngài là đúng. Nhiều vị tỳ khưu uyên bác ở khắp thế giới đi đến thực hành chánh niệm dưới sự hướng dẫn của ngài, có một vị rất uyên bác tên là Nyaung Sayadaw, vị này cũng đã giác ngộ sau khi thực hành thiền quán. Ðến năm 1952, thiền sư Sunlun Sayadaw viên tịch.

Thiền sư Sunlun Sayadaw là một người trung thực, lời nói nghiêm túc và súc tích, ngài có một sức mạnh nội tâm và rất cương quyết. Bức ảnh của ngài tỏ ra một con người đầy khí phách với một cái nhìn sâu sắc, và đôi mắt thật sáng. Nhìn vào bức ảnh, ta thấy toát ra một đức tánh vĩ đại, tượng trưng cho một con người thực sự giác ngộ.

Hiện nay có một số thiền sư dạy phương pháp tu tập của ngài ở khắp Miến Ðiện, và nhiều trung tâm thiền của Sunlun Sayadaw được thành lập ở thủ đô Miến Ðiện. Một trong những trung tâm lớn nhứt là thiền viện S. Okkalapa có hai vị hòa thượng trú ngụ, một là ngài U Tiloka, hai là ngài U Thondera, cả hai đều là đệ tử thâm niên của thiền sư Sunlun. Ơủ đây chỉ có hai mươi vị tỳ khưu cư ngụ, vì những lều và phòng lớn còn lại dành cho cư sĩ tu tập. Nhóm thiền tọa hành bốn hoặc năm lần mỗi ngày, sau mỗi lần chuyên tâm hành, thì thiền sư thuyết pháp động viên: “Quý vị may mắn được sinh làm người và thậm chí may mắn hơn nữa là được nghe chánh pháp, quý vị nên lợi dụng cơ hội đặc biệt này để tu tập, thật sự chuyên cần và nỗ lực để đạt đến sự giác ngộ”.

Thiền đường lớn thì thường đầy ắp vài trăm hành giả ở mọi lứa tuổi. Họ có thể ngồi kéo dài hai hoặc nhiều giờ hơn nữa. Trong suốt bốn mươi lăm phút đầu, thiền sinh tập trung thực hành đề mục thiền hơi thở khắc khổ. Theo lời dạy của thiền sư, sau đó hành giả trở lại niệm cảm giác trong thân, tiếp tục ngồi bất động cho đến khi hết thời gian hai hoặc ba giờ.

Những vị thầy dạy thiền theo phương pháp của thiền sư Sunlun Sayadaw nhấn mạnh rằng, những phương pháp của các vị thì rõ ràng nhứt, đơn giản và trực chỉ nhứt. Chư vị có lẽ thấy phương pháp tu cởi mở của thiền sư Achaan Chaa và Budhdadasa quá sơ đẳng và không trực chỉ, và phê bình những phương pháp tu khác như phương pháp tu Mahasi và Tanngpulu Sayadaw coi những phương pháp này như sự phát huy định xuyên qua những ý niệm mà không có trực chỉ tuệ giác.

Ðặc biệt nhấn mạnh vào sự tinh tấn tích cực, tập trung trực tiếp vào cảm thọ (đặc biệt thọ khổ) là chìa khóa tu tập của thiền sư Sunlun. Ði vào thiền đường, nhiều hành giả của thiền sư Sunlun thực tập hơi thở sâu giống như đi tìm chính mình ở giữa vòng tròn nghị lực. Nhờ theo dõi hơi thở sâu nên nỗ lực tinh tấn này làm tập trung tâm, khi ngồi trang nghiêm bất động, hoàn toàn kinh nghiệm những cảm thọ trong thân làm sâu sắùc thêm sự tu tập tuệ giác. Sử dụng cảm thọ, đặc biệt là khổ thọ, là những gì hầu hết được trình bày trong phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun. Nó là mục tiêu rõ ràng, trực tiếp tinh tấn trong mỗi oai nghi ngồi để phát huy định và tuệ điều đó sẽ dẫn đến giải thoát giác ngộ (Nirvana). Ở đó nhấn mạnh đến oai nghi ngồi lâu và bất động. Lúc còn là một nhà sư, khi tu tập ở trung tâm thiền Sunlun, tôi được trao một xâu chuỗi Miến Ðiện đẹp. Những người cư sĩ mộ đạo dâng một xâu chuỗi cho tôi với lòng thành ao ước là cả đêm nay có lẽ tôi sẽ ngồi liên tục mà không nhúc nhích, và sau đó đắc được Níp-bàn sớm hơn.

Tinh tấn tích cực để khắc phục đau nhức và sự phóng túng là phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun Sayadaw. Sức mạnh tập trung sâu vào hơi thở mới thích hợp để hành giả khắc phục năm triền cái mà thường chúng làm phóng túng tâm của hành giả. Khi nào quý vị cảm thấy buồn ngủ, chỉ tập trung một hơi thở sâu trên cảm xúc ở chót mũi thì quý vị sẽ tỉnh lại ngay. Phương pháp này có giá trị làm dịu đi một tâm thức phóng túng, lay động, vì đối diện với sự tinh tấn tích cực sâu trong hơi thở, nên hầu hết những tư tưởng bị phá tan giống như những đám mây trước một ngọn gió.

Phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun là thanh lọc tâm hôn trầm và phóng túng, để lại cho hành giả sự trong sạch và sự tập trung. Xa hơn nữa, quan sát đặc tính của tâm thì niệm đau nhức và biến đổi những cảm giác sẽ làm cho chánh niệm trở nên vững chắc hơn. Trong một thời gian ngắn, với sự thực hành này hành giả có thể cảm nhận được sức mạnh của tâm an tịnh, tập trung mà khi đã áp dụng để quan sát tiến trình thân tâm, hành giả sẽ đạt đến tuệ giác và sự giác ngộ.

Trung tâm thiền S. Okkalapa của thiền sư Sunlun rất dễ thu hút đối với những hành giả phương Tây. Ơủ đây như bất kỳ nơi nào khác ở Miến Ðiện, sự hiếu khách đối với những hành giả tham quan rất dạt dào. Mặc dù ngài thiền sư Sayadaw không nói được tiếng Anh, nhưng ngài có những đệ tử nói tiếng Anh lưu loát và rõ ràng, những người đó có thể dịch cho du khách hiểu được. Ngài thiền sư Sayadaw sẵn sàng trả lời những câu hỏi nhưng nhấn mạnh chủ yếu là tu tập tích cực, chỉ có cách đó mới thực sự giải tỏa những nghi ngờ về pháp bảo

- Nguồn: Những vị Thiền sư đương thời.  Living Buddhist Masters, by Jack Kornfield. Tỳ kheo Thiện Minh dịch Việt. Sài Gòn, 1999



 



Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

10.12.24

SAU KHI NHƯ LAI NHẬP DIỆT RỒI THÌ CÓ NĂM ĐIỀU TIÊU HOẠI

SAU KHI NHƯ LAI NHẬP DIỆT RỒI THÌ CÓ NĂM ĐIỀU TIÊU HOẠI


...
Nguyên nhân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về mười vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai là:
một hôm bà Gotamī là dưỡng mẫu của Đức Phật, chính là em ruột của hoàng hậu Mahā Mayā, tự tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy hai tấm y ca-sa thật quý định đem dâng cho Đức Phật. Ngài chỉ lãnh lấy một lá y, còn một lá y Ngài bèn bảo đem dâng cho chư Tăng, bà đem dâng từ vị Đại đức cho tới chót không ai dám nhận vì nghĩ rằng: Nếu không ai dám lãnh thì bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật, khi tới sau cùng có một vị tỳ-khưu mới tu, ông thọ lãnh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức Phật, các vị còn phàm có ý khi dể cho rằng người không đức tin và không tôn kính. Bà Gotamī có ý buồn vì dâng cho vị mới tu, sợ mình ít phước. 
Đức Phật hiểu ý bèn giảng giải rằng:

“Ai có lòng trong sạch dâng cúng đến chư Tăng thập phương thì sẽ được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai”. 
Khi xong lễ, vị tỳ-khưu ấy tên là Āsajjī bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho Ngài, và nguyện cho thành một vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười chúm chím, lúc ấy hai cái răng nhọn hàm dưới túa hào quang thấu đến cung trời Phạm Thiên, hai cái ở hàm trên thấu xuống tới cõi địa ngục A-tỳ. 
Đại đức Ānanda thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng:

“Có điều chi lạ mà Đức Thế Tôn cười rõ rệt ?” (vì chư Phật không bao giờ cười mà không có nguyên nhân), Phật bèn đáp rằng:

“Này Ānanda. Tỳ-khưu Asajjī đây sau này sẽ thành một vị Chánh đẳng Chánh giác kế vị Như Lai tên là Di Lặc Phật (Mettayya)”. Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu rồi vào tịnh thất yên nghỉ. 
Lúc ấy chư Tăng đang tụ hội tại giảng đường bàn bàn luận luận với nhau, không biết chư Phật tổ vị lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào nhĩ thông Đức Phật, Ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy Đại đức Xá-Lợi Phất bèn quỳ xuống bạch Phật rằng:

xin Ngài mở lòng bác ái giảng giải cho biết oai lực và Giáo pháp của Phật vị lai. 
Nhân đó mà Đức Phật mới giảng giải về mười vị Phật vị lai.

SAU KHI NHƯ LAI NHẬP DIỆT RỒI THÌ CÓ NĂM ĐIỀU TIÊU HOẠI



Đức Phật bèn giảng rằng:

Này Xá-Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi thì có năm điều tiêu hoại là:


– Adhigāma Antaradhāna: Tiêu Hoại Đạo Quả.

Đúng một ngàn năm sau khi Như Lai nhập diệt thì không còn có ai đắc đạo quả A-la-hán, luôn cả lục thông và tuệ phân tích thuộc nằm lòng Tam tạng nữa.

– Pariyatti Antaradhāna: Tiêu Hoại Về Pháp Học

Là khi đúng hai ngàn năm không có ai thuộc nằm lòng Tam tạng và mất lần lần và bắt đầu mất Tạng Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), Sutta (Kinh) rồi mới tới Luật (Vinaya) (vì Luật mà mất thì đạo cũng không còn, vì Luật là nền tảng của Phật giáo Vinayo sāsanamulam). Thật vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm lòng Tạng Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) vì khó nhớ và lý luận sâu xa lắm.

– Pātipatti Antaradhāna: Tiêu Hoại Về Pháp Hành

Vì khi đúng ba ngàn năm thì ít ai mến pháp hành, vì thực hành 83 theo là một điều khó, mà thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa mến sự hành đạo giải thoát. 

– Liṅga Antaradhāna: Tiêu Hoại Tăng Tướng

Khi đúng bốn ngàn năm thì chư Tăng lúc bấy giờ như người thế, vì hội nhau lại bàn rằng, mặc y xùng xình khó bề làm công việc rồi đồng lòng bỏ y ca-sa, chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải vàng (ca-sa) cột vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc dắt mép tai cho biết người tu thôi, vì bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. 
Trong lúc ấy có ít người tu đi hóa trai (trì bình khuất thực), chỉ lấy hai cái quảu (thúng nhỏ lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, đề lên hai cái giống, quảy đi khuất thực như người gánh đồ đi bán (Tam tạng, quyển 28 trang 226).

– Dhātu Antaradhāna: Tiêu Hoại Xá Lợi

Hiện nay xá lợi rải rác khắp nơi cho Chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng năm ngàn năm thì tất cả những xá lợi ấy bay về đóng thành khối, hoá thành một vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddhagāya) tại Trung Ấn Độ, thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong bảy ngày rồi lửa tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu xá lợi. 
Kể từ ấy, giáo pháp Ngài hoàn toàn tiêu diệt. 

Sau khi mãn thời kỳ Phật Pháp rồi, tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả, lần lần hung dữ độc ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi mười tuổi hoặc ít hơn chút ít. 
Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, thì người ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương thì người lại khen (mà ác thì dễ làm hơn thiện) nên con người càng ngày càng hung dữ, nhìn nhau như các loài thú dữ muốn cắn xé ăn thịt nhau. 
Lúc ấy sanh lên một trận tàn sát lẫn nhau (Satthantara Kappa - Tam tạng quyển 18, Chư Thiên, trang 148), thây chết dày đặc trên quả địa cầu, chỉ còn lại ít người lương thiện không ưa thích sự sát hại, chạy trốn vào rừng sâu núi thẳm, khi yên trận tàn sát ấy rồi, ra ngoài gặp ai còn sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau nữa (đã giữ được một giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi lên được 20 hoặc 25 tuổi, rồi lại hứa không lấy của ai (lại giữ giới không trộm cắp) những người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm, cứ thế mãi lần lần giữ cả ngũ giới là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu thì tuổi thọ của những con cháu sau sau ngày càng thêm lên mãi cho đến tuổi một a-tăng-kỳ năm mới chết. 
Sống mãi không chết cũng chán, mới có một hạng người nói rằng mình làm theo ông bà hoài nên không thấy ai chết hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống còn nửa a-tăng-kỳ rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh thì tuổi lại càng hạ xuống mãi mãi cho đến khi chúng sanh tuổi còn mười muôn năm. 
Lúc ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ Ketu Mettī, cha tên Subrama, mẹ tên Bhramavatī....

1. Taṇhaṅkara (Tṛṣṇaṃkara)
2. Medhaṅkara (Medhaṃkara)
3. Saraṇaṅkara (Śaraṇaṃkara)
4. Dīpaṃkara (Dīpaṃkara)
5. Koṇḍañña (Kauṇḍinya)
6. Maṅgala (Maṃgala)
7. Sumana (Sumanas)
8. Revata (Raivata)
9. Sobhita (Śobhita)
10. Anomadassi (Anavamadarśin)
11. Paduma (Padma)
12. Nārada (Nārada)
13. Padumuttara (Padmottara)
14. Sumedha (Sumedha)
15. Sujāta (Sujāta)
16. Piyadassi (Priyadarśin)
17. Atthadassi (Arthadarśin)
18. Dhammadassī (Dharmadarśin)
19. Siddhattha (Siddhārtha)
20. Tissa (Tiṣya)
21. Phussa (Puṣya)
22. Vipassī (Vipaśyin)
23. Sikhī Śikhin (Aruṇavatī )
24. Vessabhū (Viśvabhū)
25. Kakusandha (Krakucchanda) >>>
26. Koṇāgamana (Kanakamuni)>>>
27. Kassapa (Kāśyapa)>>>
28. Gotama (Thích Ca)>>
29. Metteyya (Di Lặc)>

Quả địa cầu chúng ta đương ở hiện tại đây, có năm vị Phật tổ giáng sanh (ba vị quá khứ, một vị hiện tại và một vị lai)
vị quá khứ là Kakusandha, Konāgamana và Kassapa; 
vị hiện tại là Gotama; (Thích Ca)
vị tương lai là Metteyya (Di Lặc).

Viết xong quyển Chánh Giác Tông, có người hỏi sao không thấy nói tới Đức Phật A Di Đà? Tôi cũng có ý muốn tìm tòi cho thấy nhưng rất tiếc xem qua hết Kinh điển Pāli cũng không thấy chỗ nào nói tới Đức Phật A-Di-Đà cả.

nguồn tham khảo: Chánh Giác Tông (Buddha Vaṃsa). Bhikkhu Nāga. Tỳ Khưu Bửu Chơn.

ghi chú: 149

CHÁNH GIÁC TÔNG (BUDDHAVAMSA)

https://phanblogs.blogspot.com/2023/02/chanh-giac-tong-buddhavamsa.html



Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

8.9.24

Toát Yếu Kinh Trung Bộ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải Tóm Tắt & Chú Giải

Toát Yếu Kinh Trung Bộ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải Tóm Tắt & Chú Giải



Trung Bộ Kinh là một trong năm bộ kinh của Kinh Tạng, gọi là Trung Bộ vì mang hình thức trung bình, đó là những pháp thoại mà phần lớn được Ðức Phật trực tiếp truyền dạy cho Chư Tăng trong sinh hoạt hàng ngày của Ngài. 
Toát Yếu Kinh Trung Bộ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải Tóm Tắt & Chú Giải



Vì thời lượng vừa phải nên những lời bài kinh trong Trung Bộ Kinh chuyên chở những đề tài như những bài tiểu luận và chính vì thế nên phong phú và sâu sắc. Theo nhiều học giả thì nội dung nổi bật nhất của Trung Bộ Kinh là Phật ngôn hướng dẫn cách tu tập cho các hành giả, ở đây thường chỉ cho các tỳ kheo. Hòa thượng Thích Minh Châu, dịch giả của Kinh Tạng Pàli, đã viết trong lời giới thiệu bản dịch: "Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm trên cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì đạo Phật là đạo đến để mà thấy chớ không phải đạo đến để nhờ người khác thấy hộ, đạo của người có mắt (Cakkumato), không phải đạo của người nhắm mắt; đạo của người thấy, của người biết (Passoto Jànato), không phải là đạo của người không thấy, không biết (Apassoto Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy mình, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm". Nội dung Kinh Trung Bộ quả thật cho chúng ta cơ hội trắc nghiệm quý báu đó.

Đây là Giáo trình do Ni sư Thích Nữ Trí Hải biên soạn, y cứ theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, với phần Anh ngữ của Hòa thượng Nanamoli.





Xem thêm: 

30.8.24

BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI

BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI 


Dịch Việt: Tỳ khưu Tâm Hạnh, Phật tử Tâm Cảnh

Lời người dịch:
Bát Chánh đạo, giáo pháp căn bản và quan trọng nhất cho sự tu tập của Phật giáo, chúng tôi được học từ những năm Trung cấp Phật học nhưng chỉ thuộc lòng, hiểu mơ hồ và chưa từng được dạy về cách thực hành. Thế nên, với chúng tôi thời ấy, Bát Chánh Đạo vẫn là kiến thức Phật học phổ thông, không cần thiết. Sau này, may mắn được tiếp cận, học và thực hành bát chánh đạo qua những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế tôn, tôi nhận ra rằng một người Phật tử không thể có sự tu tập đúng hướng đưa đến chấm dứt đau khổ nếu không được học đúng, thực hành đúng bát chánh đạo. 

BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI
BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI 



Từ đó, tôi nuôi hy vọng giới thiệu cho Phật tử Việt Nam một cuốn sách tóm tắt về Bát Chánh Đạo nhưng đầy đủ về pháp học, pháp hành và pháp thành như Đức Thế tôn đã dạy nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được. 

Qua những năm tháng làm công tác giảng dạy Phật học ở các trường Phật học Việt Nam, phiên dịch Hán tạng ra Việt ngữ và rồi được tiếp cận sách Phật học của các nhà Phật học phương Tây, tôi vẫn chưa thực hiện được hoài bão này. Biết được nguyện vọng của tôi, thầy Tâm đạo (Eric, vị sư người Mỹ) giới thiệu sách “The Noble Eightfold Path _ Way to the End of Suffering” của Ngài Bhikkhu Bodhi (xem phần giới thiệu về tác giả) với nhã ý tôi sẽ giới thiệu cho Phật tử Việt Nam.

Sau khi xem qua, tôi nhận ra đây chính là cuốn sách đúng với nguyện vọng của mình nhưng chưa làm được. Qua tác phẩm này, với sự tinh thông pháp học về Phật giáo nguyên thủy và kinh nghiệm hành trì, tác giả đã trình bày rất cô đọng nhưng đầy đủ, chính xác và rõ ràng ba lĩnh vực pháp học, pháp hành và pháp thành của Bát Chánh Đạo. Tác phẩm này có thể là cẩm nang gối đầu cho bất cứ người nào thật sự muốn đi vào con đường tu tập để chấm dứt khổ ngay trong thế giới rối ren của kiếp sống này. 

Tôi giới thiệu sách với anh Tâm Cảnh _ Nguyễn Ngọc Cảnh (một Phật tử quy y Tam bảo và học Phật pháp với sự hướng dẫn của tôi). Khi biết anh Tâm Cảnh nhận ra giá trị sách này, tôi đề nghị dịch với tiêu chí “dịch để học”. Anh nhiệt tình nhận lời và chúng tôi cùng nhau hợp tác dịch tác phẩm suốt trong thời gian dịch Covid-19 từ năm 2020 đến 2021. Bản dịch hoàn tất và sửa xong tháng 03 năm 2021 _ Phật lịch 2565. 

Tuy cùng dịch chung nhưng cá nhân tôi chịu trách nhiệm về nội dung và Việt ngữ Phật học dùng trong bản dịch này. Trong quá trình dịch, tôi đã tham khảo các bản Việt dịch Nikàya, nhất là dùng từ ngữ Phật học trong bản dịch Thắng pháp tập yếu luận của Ngài Trưởng lão Thích Minh Châu cho các chương Chánh niệm và Chánh định. Ngoài ra, tôi tham khảo về Tứ niệm xứ trong sách Pháp hành thiền tuệ của Ngài Trưởng lão Hộ Pháp, chùa Bửu Long. 

Tôi không quên thành kính tri ân Ngài Trưởng lão Hộ Nhẫn, chùa Thiền Lâm, Huế và Ngài Trưởng lão Viên Minh, chùa Bửu Long. Hai vị thầy đã tiếp nhận và hướng dẫn tôi được tiếp cận và tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật. Bản dịch này là pháp cúng dường đến hai Ngài, các vị thầy và các pháp hữu đã và đang cùng tôi tu học theo những lời dạy của Đức Phật.

Chúng tôi cảm ơn chị Nguyên Nhật Trần Như Mai đã giới thiệu chúng tôi với Ngài Bhikkhu Bodhi để xin phép dịch và in tác phẩm này. Sau cùng, chúng tôi chân thành tri ân các Phật tử, thân quyến, bạn bè đã hỗ trợ tinh thần và vật chất để bản dịch này được xuất bản. Chúng tôi hy vọng bản dịch này góp một phần tài liệu nhỏ cho các Phật tử Việt Nam đang có nguyện vọng tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế Tôn để chấm dứt khổ ngay trong kiếp sống này. 

Chúng tôi cũng mong rằng một ngày không xa những loại sách này được giới thiệu trong các trường Phật học ở Việt Nam. 
Mùa Phật đản 2565_ năm 2021 Mindful Way Buddhist Meditation Society Tu viện Đạo Tâm 10164 Gramercy Pl Riverside, CA 92503, USA . 

ghi chú: 172




Xem thêm: 

1.10.23

TUỔI 20 YÊU DẤU TÁC GIẢ NGUYỄN HUY THIỆP

TUỔI 20 YÊU DẤU TÁC GIẢ NGUYỄN HUY THIỆP


Tuổi 20 yêu dấu được viết chỉ trong vòng một tháng, trong một căn phòng nhỏ trên đảo Cát Bà (Hải Phòng). Nhân vật Khuê là một thanh niên thành phố có bố là nhà văn nổi tiếng, nhưng cậu ta lại thấy chán ghét mọi thứ quanh mình. Biến cố xảy ra khi hai bố con hiểu lầm nhau và Khuê bị bố đuổi khỏi nhà. Tai vạ này dẫn đến tai vạ khác, đẩy cậu "công tử bột" dần lún sâu vào giới giang hồ. Từ "nhẹ nhàng" như cầm đồ, cậu "liều mạng" hơn với những hành động đua xe, gặp gái điếm, tham gia buôn lậu, hít heroin... Rồi cậu bị đánh cho thừa sống thiếu chết và bị ném ra đảo hoang. Ở đây, cậu bắt đầu học cách sống tự lập.

“ Tuổi hai mươi yêu dấu” là một tựa đề có phần ... cải lương. Tác giả đã có ý định đặt tên cho nó là “ Khuê” (lấy tên nhân vật chính), hoặc “ Tuột xích”, hoặc “ Bút ký phiêu lưu của một sinh viên đại học”, hoặc “ Bài ca tuổi trẻ”... Suy nghĩ kỹ, tác giả lấy tên “Tuổi hai mươi yêu dấu” là muốn nhằm vào đối tượng độc giả thanh niên, những độc giả mà tác giả vẫn kính trọng và luôn yêu mến.

TUỔI 20 YÊU DẤU TÁC GIẢ NGUYỄN HUY THIỆP


"...Nhìn vào danh sách 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều..."vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả..."
-Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, Tạp chí Ngày Nay (ngày 15 tháng 3 năm 2004), Nguyễn Huy Thiệp.







Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

13.7.23

ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM PDF

ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM (Phiên bản dạng PDF)

ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM (Phiên bản dạng PDF)


A. TAM TẠNG PALI - BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT


I. LUẬT TẠNG


I.1. Phân tích giới bổn. 914 trang, 84.6 MB
I.2. Hợp phần, Tập yếu. 1502 trang, 140.4 MB
*

II. KINH TẠNG


II.1. Trường bộ. 668 trang, 68.1 MB
II.2. Trung bộ. 1246 trang, 117.5 MB
II.3. Tương ưng bộ. 1432 trang, 127.4 MB
II.4. Tăng chi bộ. 1424 trang, 171.2 MB
II.5. Tiểu bộ
II.5.1. Tiểu bộ I. 1348 trang, 94.6 MB
. Tiểu Tụng
. Pháp Cú
. Kinh Phật Tự Thuyết
. Kinh Phật Thuyết Như Vậy
. Kinh Tập
. Chuyện Thiên Cung
. Chuyện Ngạ Quỷ
. Trưởng Lão Tăng Kệ
. Trưởng Lão Ni Kệ
II.5.2. Tiểu bộ II. 1264 trang, 111.6 MB
. Chuyện Tiền Thân (1-438)
II.5.3. Tiểu bộ III. 1484 trang, 118.7 MB
. Chuyện Tiền Thân (439-547)
II.5.4. Tiểu bộ IV. 1218 trang, 125.3 MB
. Đại Diễn Giải
. Tiểu Diễn Giải
. Phân Tích Đạo
II.5.5. Tiểu bộ V. 1268 trang, 115.0 MB
. Thánh Nhân Ký Sự
. Phật Sử
. Hạnh Tạng
*

III. VI DIỆU PHÁP TẠNG (Abhidhamma, A-tỳ-đàm, Vô tỷ pháp, Thắng pháp).


III.1. Bộ Pháp Tụ: 
III.2. Bộ Phân Tích: 
III.3. Bộ Nguyên Chất Ngữ: 
III.4. Bộ Nhân Chế Định: 
III.5. Bộ Ngữ Tông: 
III.6. Bộ Song Đối: 
III.7. Bộ Vị Trí
III.7.1. Bộ Vị Trí, quyển 1&2: 
III.7.2. Bộ Vị Trí, quyển 3&4: 
III.7.3. Bộ Vị Trí, quyển 5&6: 
*-----*

B. HÁN TẠNG - BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT


I. LUẬT TẠNG


II. 1. Luật Ma-ha Tăng-kỳ (Mahāsaṅghika)
Tập 1: 
Tập 2: 
Tập 3: 
Tập 4: 


Tập 1: 
Tập 2: 
Tập 3: 
Tập 4: 
Tập 5: 
Tập 6: 
Tập 7: 
https://tinyurl.com/3734bjv3 (Tổng mục lục)
*

II. KINH TẠNG


II.1. Trường A-hàm. 581 trang, 50.8 MB
II.2. Trung A-Hàm. 1641 trang, 143.5 MB
II.3. Tạp A-Hàm. 1784 trang, 211.6 MB
II.4. Tăng Nhất A-Hàm. 1122 trang, 105.3 MB
*

III. LUẬN TẠNG


III.1. A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận
III.2. A-tỳ-đạt-ma Pháp Uẩn Túc Luận
III.3. Thi Thiết Luận
III.4. A-tỳ-đạt-ma Thức Thân Túc Luận
III.5. A-tỳ-đạt-ma Giới Thân Túc Luận
III.6. A-tỳ-đạt-ma Phẩm Loại Túc Luận
III.7. A-tỳ-đạt-ma Phát Trí Luận
*-----*
nguồn: chú Binh Anson

https://budsas.blogspot.com/2023/07/tam-tang-pali-ban-dich-tieng-anh.html



Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

Vi Diệu Pháp Sơ Đẳng- Hoà Thượng Tiến Sĩ Bửu Chánh biên soạn

Vi Diệu Pháp Sơ Đẳng- Hoà Thượng Tiến Sĩ Bửu Chánh biên soạn


Kính thưa Chư Tôn Đức Tăng, quý Cô Tu Nữ cùng toàn thể quý Phật tử
Chúng con xin trân trọng gửi đến quý vị món quà pháp bảo trọn bộ năm quyển VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG do Ngài Hoà Thượng Tiến Sĩ Bửu Chánh biên soạn và chúng con trình bày lại bằng SƠ ĐỒ CHI PHÁP.
Xin trân trọng tri ân chị Kim Nhung và em Tina Nguyễn đã hết lòng hỗ trợ trong việc dò chi pháp và lỗi chính tả trong quá trình làm sách. Xin tri ân tất cả cả bạn đạo đã ủng hộ và khích lệ tinh thần cho Nguyên Như trong thời gian qua.
Mong rằng bộ sách nhỏ này có thể giúp được những chư vị mới tiếp cận môn học uyên thâm của Đức Thế Tôn hầu thăng tiến trên con đường giải thoát khổ đau và thành tựu đạo quả.

Nguyên Như kính bút 
Vi Diệu Pháp Sơ Đẳng- Hoà Thượng Tiến Sĩ Bửu Chánh biên soạn



LINK SÁCH 
📍 VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG TẬP I
📍 VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG TẬP II 
📍 VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG TẬP III 
📍 VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG TẬP IV 
📍 VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG TẬP V 
📍 VI DIỆU PHÁP SƠ ĐẲNG TRỌN BỘ 




Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

7.12.22

MỞ CỬA TRÁI TIM OPENING THE DOOR OF YOUR HEART TÁC GIẢ THIỀN SƯ AJAHN BRAHM

CON GIÒI VÀ ĐỐNG PHÂN


Có hai nhà sư cùng tu trong một tự viện và thương nhau như anh em ruột thịt. Sau khi lìa đời, hai sư tái sanh theo hai nẻo vì duyên nghiệp riêng của mỗi người. Sư em tái sanh làm thiên tử sống tự tại trên cõi trời. Một hôm nhớ bạn, sư em đi tìm. Sư tìm khắp mấy từng trời nhưng không thấy bạn. Xuống cõi người, sư cũng không thấy. Lục lạo thêm dưới các cõi ác để cầu may vì sư không tin bạn mình đến đỗi bị đoạ xuống đây. Nhưng sư em ngạc nhiên nhận ra bạn mình đang làm con giòi sống trong đống phân.
Thương bạn, vị thiên tử muốn cứu giòi ra khỏi cảnh khổ bất kể nghiệp của giòi. Ông đến đống phân gọi: 
“Này giòi, bạn có nhận ra tớ không? Chúng ta từng là bạn trong kiếp trước nè. Tớ đang làm thiên tử sống trên cõi trời và muốn đưa bạn lên cùng sống trên đó. bạn đi nha?” 
“Cám ơn bạn ,” giòi nói, 
“Có gì vui sướng trên cõi thiên mà bạn oang oang vậy? tớ đang rất hạnh phúc trong đống phân tuyệt diệu này.” 
“bạn không biết đó chớ,” vị thiên tử đáp rồi bắt đầu mô tả những kỳ diệu của thiên cảnh. 
“Trên đó có phân không, thưa bạn ?” giòi đặt thẳng vấn đề. 
“Dĩ nhiên là không,” vị thiên tử thật thà đáp. 
“Vậy tớ xin được từ chối.” Vừa nói giòi vừa chui vô đống phân. Nghĩ rằng giòi sẽ thích thú với thiên giới nếu được thấy tận mắt, vị thiên tử không nề hà đưa tay bới phân tìm giòi. Ông kéo giòi ra, nhưng giòi giãy giụa và la lớn: 
“Xin buông tớ ra. Đừng bắt cóc giòi!” Rồi giòi trơn vuột khỏi tay vị thiên tử, và chui trở vô đống phân. Vị thiên tử moi tìm lại và bắt được giòi lần thứ hai. Như lần trước giòi tiết chất nhờn, trở thành trơn chùi, lọt khỏi kẻ tay, và trốn dưới đống phân. Trì chí, vị thiên tử lặp lại lần thứ ba, thứ tư, …và thứ một trăm lẻ tám. Nhưng giòi đã gắn bó quá sâu đậm với đống phân rồi nên không muốn bỏ đi. Sau cùng vị thiên tử đành trở về thiên cung, tay không.

MỞ CỬA TRÁI TIM OPENING THE DOOR OF YOUR HEART TÁC GIẢ THIỀN SƯ AJAHN BRAHM
MỞ CỬA TRÁI TIM OPENING THE DOOR OF YOUR HEART TÁC GIẢ THIỀN SƯ AJAHN BRAHM






Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian

15.11.22

Nhà khổ hạnh và gã lang thang Tác giả Hermann Hesse

Nhà khổ hạnh và gã lang thang là câu truyện về sự tương phản giữa Huyền Minh và Đan Thanh. 


Huyền Minh đại diện cho khuôn khổ, phép tắc, luôn giữ mình vì Chúa, giỏi tính toán và tinh thông triết lý. Đan Thanh đại diện cho sự hoan lạc, tự do, buông thả, chơi bời mang đậm chất nghệ sĩ. Tuy trái ngược nhưng họ chính là đôi bạn thân. Bao nhiêu năm sống trong vô minh, lạc lối, Đan Thanh nhận ra mình, Huyền Minh cũng học hỏi được nhiều điều mới mẻ. Từ đó chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cuộc đời của hai số phận đối lập nhau.


Nhà khổ hạnh và gã lang thang Tác giả Hermann Hesse
Nhà khổ hạnh và gã lang thang Tác giả Hermann Hesse



Nhân vật: Huyền Minh


Huyền Minh từ từ cúi xuống, lòng bừng cháy vì đau đớn và yêu thương, và bây giờ, lần đầu tiên từ nhiều năm kết bạn với Đan Thanh, chàng vuốt tóc và hôn lên trán bạn. Ngạc nhiên, và khi đã hiểu, Đan Thanh vô vàn cảm động.
- Đan Thanh, tu viện trưởng thì thầm bên tai chàng, tha thứ cho tôi vì đã không nói với em sớm hơn. Đáng lý tôi phải nói ngay vào ngày tôi đến thăm em trong ngục thất, hoặc khi tôi trông thấy những pho tượng đầu tiên của em, hoặc bao lần trước đây. Hôm nay tôi phải nói với em là tôi yêu thương em biết bao, em đã mang ý nghĩa đến cho đời tôi, cuộc sống tôi phong phú là nhờ em. Có thể đối với em không là gì hết. Con người của em là để yêu thương, điều này không phải mới lạ đối với em, vì bao nhiêu đàn bà đã yêu thương và chiều chuộng em. Với tôi thì khác. Đời tôi khô cằn thương yêu, tôi thiếu vắng hương sắc tuyệt vời nhất của cuộc đời. Tu viện trưởng Từ Ân của chúng ta đã một lần nói tôi là kẻ ngạo mạn, có lẽ cha nói đúng. Tôi không bất công đối với mọi người. Tôi cố gắng vô tư và kiên nhẫn đối với tất cả, nhưng chưa bao giờ tôi biết yêu thương. Trong hai học giả của tu viện, tôi chỉ chọn người thông thái nhất, chưa bao giò tôi yêu thương người yếu kém vì chính sự yếu kém của người ấy. Và nếu tôi biết yêu thương là nhờ em. Tôi đã biết yêu thương em, chỉ yêu thương riêng em giữa muôn người. Em không thể tưởng tượng được hết ý nghĩa ấy như thế nào. Đó là mạch nước trong sa mạc, là cây cỏ trổ hoa giữa vùng đá sỏi hoang sơ. Tôi phải tạ ơn riêng em, người đã làm trái tim tôi không khô chết, và đó là giới xứ duy nhất trong tôi còn hé mở để đón rước Thánh Ân.

Nhân vật Đan Thanh:


- Bạn thân mến, tôi không thể đợi đến ngày mai. Tôi phải từ biệt bạn bây giờ, và trước khi vĩnh biệt, tôi phải nói Với bạn tất cả mọi sự. Hãy lắng nghe tôi một lát. Tôi muốn nói về mẹ tôi, về những ngón tay mẹ đang bóp siết tim tôi. Nhiều năm qua ước mơ tha thiết nhất và giấc mộng thầm kín nhất của tôi là tạc một pho tượng của Mẹ. Mẹ là hình ảnh thiêng liêng nhất tôi hằng ấp ủ trong tim. Mẹ là ảo vọng huyền bí của tình yêu. Tôi không thể nào chịu đựng nổi, dù trong chốc lát, khi nghĩ tôi sẽ chết trước khi tạc tượng mẹ, cuộc đời tôi như vậy sẽ thật là vô ích. Nhưng bây giờ mọi việc đảo lộn một cách lạ lùng. Không phải tay con nặn và tạo hình mẹ mà chính tay mẹ nặn và tạo hình con. Mẹ đang bấu chặt ngón tay quanh tim con, và rứt tung ra, người con trống rỗng dần, mẹ lôi cuốn con về cõi chết và cùng chết theo con là mộng ước ngày nào, pho tượng tuyệt tác, người Mẹ- Đại Thể- Eva. Con vẫn còn trông thấy pho tượng, và nếu đôi tay con còn sinh lực, con có thể tạo được. Nhưng mẹ không muốn, mẹ không muốn con hiển lộ bí ẩn của mẹ. Mẹ chỉ muốn con chết. Con vui lòng đi vào cõi chết. Mẹ đã mang cái chết đến với con thật dễ dàng.
Huyền Minh lắng nghe những lời của Đan Thanh, rung động đến tận cùng. Chàng phải cúi sát vào đôi môi của bạn. Có những lời chàng nghe không rõ, có những lời chàng nghe được nhưng ý nghĩa đã chìm khuất.
Bây giờ người bệnh mở mắt và nhìn thật lâu vào gương mặt bạn. Ánh mắt Đan Thanh nói lên lời vĩnh biệt. Bỗng Đan Thanh khẽ lắc đầu, môi chàng mấp máy:
- Nếu một mai anh qua đời, Huyền Minh, làm sao anh chết được khi không có mẹ bên anh? Không có mẹ, ta sẽ không biết yêu. Không có mẹ ta sẽ không biết chết.
Chàng lại nói sau đó những lời khó hiểu. Trong hai ngày cuối cùng, Huyền Minh đã ngồi bên giường bạn ngày lẫn đêm theo dõi mạch sống từ từ tuôn mất. Những lời nói sau cùng của Đan Thanh như ngọn lửa đã thắp sáng tâm tư chàng.




Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian

4.9.22

Mở Cửa Trái Tim Opening The Door Of Your Heart tác giả Thiền sư Ajahn Brahm

Con giòi Và Đống Phân 


Có hai nhà sư cùng tu trong một tự viện và thương nhau như bạn em ruột thịt. Sau khi lìa đời, hai sư tái sanh theo hai nẻo vì duyên nghiệp riêng của mỗi người. Sư em tái sanh làm thiên tử sống tự tại trên cõi trời. Một hôm nhớ bạn, sư em đi tìm. Sư tìm khắp mấy từng trời nhưng không thấy bạn. Xuống cõi người, sư cũng không thấy. Lục lạo thêm dưới các cõi ác để cầu may vì sư không tin bạn mình đến đỗi bị đoạ xuống đây. Nhưng sư em ngạc nhiên nhận ra bạn mình đang làm con giòi sống trong đống phân.

Thương bạn, vị thiên tử muốn cứu giòi ra khỏi cảnh khổ bất kể nghiệp của giòi. Ông đến đống phân gọi: 
“Này giòi, bạn có nhận ra tớ không? Chúng ta từng là bạn trong kiếp trước nè. tớ đang làm thiên tử sống trên cõi trời và muốn đưa bạn lên cùng sống trên đó. bạn đi nha?” 
“Cám ơn bạn ,” giòi nói, 
“Có gì vui sướng trên cõi thiên mà bạn oang oang vậy? tớ đang rất hạnh phúc trong đống phân tuyệt diệu này.” 
“bạn không biết đó chớ,” vị thiên tử đáp rồi bắt đầu mô tả những kỳ diệu của thiên cảnh. 
“Trên đó có phân không, thưa bạn ?” giòi đặt thẳng vấn đề. 
“Dĩ nhiên là không,” vị thiên tử thật thà đáp. 
“Vậy tớ xin được từ chối.” Vừa nói giòi vừa chui vô đống phân. Nghĩ rằng giòi sẽ thích thú với thiên giới nếu được thấy tận mắt, vị thiên tử không nề hà đưa tay bới phân tìm giòi. Ông kéo giòi ra, nhưng giòi giãy giụa và la lớn: 
“Xin buông tớ ra. Đừng bắt cóc giòi!” Rồi giòi trơn vuột khỏi tay vị thiên tử, và chui trở vô đống phân. Vị thiên tử moi tìm lại và bắt được giòi lần thứ hai. Như lần trước giòi tiết chất nhờn, trở thành trơn chùi, lọt khỏi kẻ tay, và trốn dưới đống phân. Trì chí, vị thiên tử lặp lại lần thứ ba, thứ tư, …và thứ một trăm lẻ tám. Nhưng giòi đã gắn bó quá sâu đậm với đống phân rồi nên không muốn bỏ đi. Sau cùng vị thiên tử đành trở về thiên cung, tay không.

Nguồn Mở Cửa Trái Tim - Opening The Door Of Your Heart -Thiền sư Ajahn Brahm
Nguồn Mở Cửa Trái Tim - Opening The Door Of Your Heart -Thiền sư Ajahn Brahm

Nguồn Mở Cửa Trái Tim - Opening The Door Of Your Heart -Thiền sư Ajahn Brahm



Nguồn: Mở Cửa Trái Tim - Opening The Door Of Your Heart -Thiền sư Ajahn Brahm

ebook Mở Cửa Trái Tim - Opening The Door Of Your Heart -Thiền sư Ajahn Brahm



Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian

18.8.21

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG TÁC GIẢ BAIRD THOMAS SPALDING

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG TÁC GIẢ BAIRD THOMAS SPALDING


Hành Trình Về Phương Đông mở ra một chân trời mới về Đông Tây gặp nhau, để khoa học Minh triết hội ngộ, để Hiện đại Cổ xưa giao duyên, để Đất Trời là một. Thế giới, vì vậy đã trở nên hài hòa hơn, rộng mở, diệu kỳ hơn và, do đó, nhân văn hơn.

Hành Trình Về Phương Đông kể về những trải nghiệm của một đoàn khoa học gồm các chuyên gia hàng đầu của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh được cử sang Ấn Độ nghiên cứu về huyền học và những khả năng siêu nhiên của con người. Suốt hai năm trời rong ruổi khắp các đền chùa Ấn Độ, chúng kiến nhiều pháp luật, nhiều cảnh mê tín dị đoan, thậm chí lừa đảo...của nhiều pháp sư, đạo sĩ...họ được tiếp xúc với những vị thế, họ được chứng kiến, trải nghiệm, hiểu biết sâu sắc về các khoa học cổ xưa và bí truyền của văn hóa Ấn Độ như Yoga, thiền định, thuật chiêm duyên, nghiệp báo, luật nhân quả, cõi sống và cõi chết....

Đúng lúc một cuộc đối thoại cởi mở và chân thành đang sắp diễn ra với các đạo sĩ bậc thầy, thì đoàn nhận được tối hậu thu từ chính quyền Anh Quốc là phải ngừng ngay việc nghiên cứu, tức khắc hồi hương và bị buộc phải im lặng, không được phát ngôn về bất cứ điều gì mà họ đã chứng nghiệm. Sau cùng ba nhà khoa học trong đoàn đã chấp nhận bỏ lại tất cả sau lưng, ở lại Ấn Độ tiếp tục nghiên cứu và cuối cùng trở thành tu sĩ. Trong số đó có giáo sư Salding- tác giả hồi ký đặc biệt này.

Không chỉ bây giờ mà suốt vài chục năm qua rất nhiều diễn đàn trong và ngoài nước đã tranh luận rất nhiều về nguồn gốc, xuất xứ cuốn sách này. Mà người đã tạo ra nó lại yên lặng như không hề có liên quan.


Theo nhiều người nói trước đó, cuốn sách là một phần trong bộ hồi ký nổi tiếng của giáo sư Baird T. Spalding (1857-1953), “Life and Teaching of the Masters of the Far East” (xuất bản năm 1953) ghi nhận đầy đủ về cuộc hành trình gay go nhưng kỳ thú, tràn đầy sự huyền bí ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư. Nhưng sự thật sau cùng lại dường như không phải như vậy: Cuốn sách “Hành trình về Phương Đông” này có thể là một cuốn độc lập, nội dung khác hoàn toàn – chỉ liên quan đến cái tên Baird T. Spalding mà thôi.

“Hành trình về Phương Đông” còn khiến nhiều người tò mò không kém là vì dịch giả của cuốn sách là Nguyên Phong, một người nổi tiếng và đầy bí ẩn. Không xuất hiện trên truyền thông, mà chỉ sống ẩn danh nên có rất nhiều người không biết về dịch giả Nguyên Phong. Nguyên Phong chính là bút danh của Giáo sư John Vu (tên thật là Vũ Văn Du). Ông là một tác giả, dịch giả nổi tiếng của các tác phẩm về văn học, tâm linh phương Đông, giáo dục và công nghệ.

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG TÁC GIẢ BAIRD THOMAS SPALDING
HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG TÁC GIẢ BAIRD THOMAS SPALDING



VỀ TÁC GIẢ

Baird Thomas Spalding (1872–1953) là tác giả của loạt sách Life and Teaching of the Masters of the Far East (Cuộc đời các chân sư Phương Đông). Trong một số sách ghi Spalding sinh tại Anh năm 1857, theo Wikipedia, Spalding được sinh ra ở Bắc Cohocton, New York năm 1872.

Năm 1924, ông phát hành ấn bản đầu tiên của Hành Trình Về Phương Đông, mô tả về cuộc du hành đến Ấn Độ và Tây Tạng của một nhóm nghiên cứu 11 nhà khoa học vào năm 1894.


PDF: HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG TÁC GIẢ BAIRD THOMAS SPALDING


https://drive.google.com/file/d/1QMsRQc1SOLQZTsjKIcRRDlxn8Tu9putA/view?usp=sharing

PS: Một cuốn sách nửa chim nửa chuột vừa đủ tạo ra một con dơi


Có thể bạn muốn xem: Thống kê bài đọc nhiều theo thời gian

10.8.21

NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ

NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ 


Một cựu tổng thống vùng Caribê bệnh tật, sống ẩn dật ở Geneva, được một tài xế xe cứu thương đầy tham vọng và bà vợ cứng đầu của anh ta làm bạn.


Anh chàng Margarito Duarte từ vùng rừng núi Andes xứ Colombia đến Rome với một cái hộp có hình dáng và kích thước của một cái đựng cây trung hồ cầm để dâng lên đức Giáo Hoàng những gì đựng trong đó.


Một người đàn bà mang chiếc nhẫn hình rắn với mắt màu ngọc bích kiểu Ai Cập và chỉ được biết qua cái tên cô Frieda do đám sinh viên châu Mỹ La tinh đặt cho, sống bằng nghề rao bán các giấc mộng của mình cho các gia đình giàu có.


Một cô ca sĩ Mễ Tây Cơ xinh đẹp trên đường về thành phố Barcelona, xe bị hỏng và do những ngẫu nhiên lạ lùng của số mệnh, đã phải kết thúc cuộc đời trong một bệnh viện tâm thần.


Ở Toscane, một gia đình đi nghỉ hè đến thăm m ột lâu đài thời Phục Hưng bây giờ do một nhà văn danh tiếng Venezuela sở hữu và đã gặp bóng ma của người chủ lâu đời mấy trăm năm trước, một hiệp sĩ đã tự tìm lấy cái chết thê thảm do tuyệt vọng vì tình.


Maria dos Prazeres, một thời từng là nàng kiều nữ giang hồ quyến rũ nhất ở Barcelona, nằm mộng thấy thần chết xuất hiện, vì thế bà ta bắt đầu hoạch định kế hoạch cho đám tang của chính mình.


Một góa phụ trang phục theo kiểu Thánh Francis, dong thuyền từ Argentina đến Rome để gặp đức Giáo Hoàng.


Một cậu thiếu niên điển trai vùng Caribê hóa điên nơi đất Tây Ban Nha.


Một cô gia sư người Đức đã hủy hoại mùa hè vì những qui luật khắt khe do cô đặt ra và rồi đã tự hủy hoại chính m ình.


Billy Sanchez mang bà vợ có bầu với vết thương trên ngón tay đeo nhẫn, đến nhà thương và rồi chẳng bao giờ thấy lại nàng.


Một lần nữa, qua tuyển tập truyện ngắn đầy lôi cuốn này, Gariel Garcia Marquez mời gọi chúng ta đi vào những thế giới uy nghiêm và huyền ảo đầy tính ma thuật, từ đó chúng ta trồi lên nhưng v ẫn mãi bị vương vấn bởi bao khoảng thời gian mông lung hòa quyện vào nhau.

NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ

NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ 



EBOOK NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ


https://drive.google.com/file/d/1NFUPnYLnptJXBlXgOsc-GNMvSggNe2sz/view?usp=sharing

PHẬT PHÁP CHO SINH VIÊN (BUDDHA DHAMMA FOR STUDENTS)Tỳ kheo Phật Lệ - (Buddhadasa Bhikkhu)

CHÁNH PHÁP ĐƯỢC SO SÁNH VỚI ĐIỀU GÌ?

Ðức Phật nói: "Chánh Pháp có thể được so sánh với chiếc bè," Ngài đã dùng chữ chiếc bè, vì ngày xưa chiếc bè thường được xử dụng để vượt sang sông và cách giải thích Chánh Pháp như thế rất dễ hiểu. 
Nhưng lời ví dụ nầy mang một ý nghĩa thật quan trọng. 
Ta chẳng nên quá quyến luyến vào Chánh Pháp đến nổi quên cả chính mình, quá hảnh diện mình là "ông thầy", một nhà học giả, hay một bực trí thức học rộng. 
Nếu ta quên mất rằng Chánh Pháp chỉ như chiếc bè, các nguy cơ ấy sẽ lại nổi lên. 
Chánh Pháp là một chiếc bè, một phương tiện chuyên chở, để đưa ta sang đến bờ bên kia. 
Ðã đến bờ bên kia và bước chơn lên đất liền, ta chẳng điên khùng gì mà mang vác chiếc bè đi theo ta nữa. 
PHẬT PHÁP CHO SINH VIÊN (BUDDHA DHAMMA FOR STUDENTS)Tỳ kheo Phật Lệ - (Buddhadasa Bhikkhu)
PHẬT PHÁP CHO SINH VIÊN (BUDDHA DHAMMA FOR STUDENTS)Tỳ kheo Phật Lệ - (Buddhadasa Bhikkhu)


Ví dụ đó dạy ta phải biết nhận chân ra và xử dụng chánh Pháp như một phương tiện để đạt đến mục đích, chớ chẳng để chụp bắt và bám níu vào, cho đến mức quên cả chính mình đi. 
Nếu ta chẳng nhận chân ra nhiệm vụ thật sự của chiếc bè, chúng ta có thể giữ nó lại bên mình để phô trương hoặc để tranh cãi với kẻ khác. 
Ðôi khi nó lại còn được đem dùng để đua thuyền, thật là hao phí và vô dụng. 
Nó phải được xử dụng đúng theo chủ đích, để bơi sang sông, để vượt dòng nước. 
Kiến thức về Chánh pháp cần phải được xử dụng để vượt qua biển khổ. 
Nó chẳng nên được cầm giữ lại vì mục đích có hại, như để chiến đấu nhau bằng miệng lưỡi sắc bén như gươm, hoặc để tranh luận, hay được dùng như một tế vật để tôn thờ, lễ bái. 
Sau cùng, xin đừng chụp nắm và bám níu vào nó, để đến nổi khi đã sang bờ bên kia, bước chơn lên đất liền rồi mà vẫn còn muốn mang kè kè chiếc bè theo mình. 


nguồn: PHẬT PHÁP CHO SINH VIÊN (BUDDHA DHAMMA FOR STUDENTS) Tỳ kheo Phật Lệ - (Buddhadasa Bhikkhu) Thiện Nhựt Phỏng Dịch 
Nguyên tác Thái ngữ: "Lak Dhamma Samrab Nak Seuksa", 
Bản dịch Anh ngữ: "Buddha Dhamma For Students", của Rod Bucknell

PHẬT PHÁP CHO SINH VIÊN (BUDDHA DHAMMA FOR STUDENTS)Tỳ kheo Phật Lệ - (Buddhadasa Bhikkhu) . PDF

3.7.21

LÃNG MINH

LÃNG MINH
 

Chuyện xảy ra ở Ấn Ðộ, trong một ngày của hơn hai ngàn năm trước…


Buổi chiều. Có một chút gió lạnh từ mặt sông thổi lên. Du sĩ Nilanetra vừa tắm xong, ông đứng trên bờ cát phủi từng mảng nước còn dính trên người. Trời sắp tối rồi, ông lủi thủi bước về ngôi đền đổ nát bên đường để tìm chỗ ngã lưng qua đêm. Hành trang của ông ít oi đến mức không thể bỏ quên món nào: Một cái bát đất dùng chung cho việc ăn uống tắm gội và một cái chăn mỏng màu cỏ úa cũng đã nhàu nát luôn đắp trên người như một kiểu giáo phục, và thường khi còn là mái nhà cho ông. Mấy năm sau này lớn tuổi, ông có thêm chiếc gậy có thể tìm thấy ở bất cứ đâu: Một nhánh cây khô cầm vừa tay. Ai hỏi ông sao đạm bạc đến vậy cho khổ cái thân, ông bảo cứ ở đâu có người thì gì cũng có, mình chỉ nên chuẩn bị những gì không ai giúp được.
Ðêm cuối năm trong ngôi đền cổ. Trời mỗi lúc một lạnh, Nilanetra đốt một ít phân bò khô để sưởi rồi thì cứ ngồi vậy mà ngủ quên lúc nào không hay. Những người quen biết thường kháo với nhau rằng Nilanetra tu hành mấy chục năm chẳng có sở chứng gì phi phàm, ngoài chút công phu nghe cũng lạ tai. Ông có thể nhớ rõ mình đi vào giấc ngủ và thức giấc bằng hơi thở ra hay vào. Chuyện đó nếu ông không nói ra thì ai mà biết được, vậy mà nó cũng thành giai thoại. Ngán thiệt.
Buổi sớm mai bên sông, trời còn dày sương. Du sĩ Nilanetra thu mình ngồi trước đống lửa, ông gõ nhẹ ngón tay lên chiếc bát đất theo một nhịp điệu mơ hồ, ánh mắt như đang dõi ra mặt sông xa vời. Ông nhớ lại giấc ngủ đêm qua. Có lẽ đã hơn hai mươi năm rồi, ông chưa từng có một giấc mơ lạ lùng kiểu vậy. Nói là chiêm bao, nhưng nó là một đoạn dài hồi ức, chính xác và chi tiết đến không ngờ…
Ngày đó, sau mấy hôm liền ngồi bên bờ sông ngó theo dòng nước đã cuốn trôi cái xác của người chị họ mà người lớn bảo là thủy táng gì đó để hồn chị về trời, cậu thiếu niên Nilanetra cứ tự hỏi mình một điều không sao có lời đáp: Sướng khổ gì một đời rồi cũng bị thả trôi sông kiểu đó hay sao ?
Mấy hôm sau, một nhóm du sĩ đi ngang nhà đã đồng ý cho Nilanetra tháp tùng sau một câu nói lạnh ngắt của cậu với người thân trong gia đình: Hoặc đi hoặc chết. Chẳng biết vì sao cậu lại có được suy nghĩ này: Cứ sống khổ như điên sẽ bớt được phần nào nổi sợ hãi. Nilanetra đã lên đường từ đó. Thời gian của kiếp đời du sĩ không thể tính bằng năm tháng. Vừa làm mất vừa làm vỡ trên dưới chục cái bát đất, thay mới gần chục tấm vải choàng, Nilanetra đã ra một du sĩ chính hiệu: Không tình thân, không cố quận, không nhớ nổi chuyện gì ngoài hơi thở. Và để qua được chừng ấy đoạn đường tu trì khốc liệt, ông dĩ nhiên đã phải trả một cái giá đắt hơn mạng người.
Năm ấy, nhóm du sĩ dừng chân ở một ngôi làng trù phú để an cư mùa mưa. Cơm bánh đưa tận miệng và chỗ ở thiệt đàng hoàng đã làm gã du sĩ trẻ chùn chân không muốn đi nữa. Và tệ nhất, trong vài ngày sau cùng trước khi phải rời đi, một chuyện động trời đã xảy ra. Hôm đó, cô con gái của ông thợ gốm trong làng sau khi rót cho Nilanetra một bát sữa nóng, đã nói nhỏ vào tai chàng một lời thầm thì nhẹ như hơi thở. Nàng rủ chàng ở lại làng nắn đất sét với nhau một đời !

Du sĩ Nilanetra chết điếng, toan đem trả lại thầy chiếc bát đất để được ở lại. Nhưng chàng đã được cứu nạn bằng mấy câu nói của lão du sĩ già trong nhóm: Cầm lấy cái bát đất này, chúng ta chỉ có một lựa chọn là đi tới, đi hoài. Dừng lại, chúng ta không còn là mình nữa. Hãy nhớ, ngày xưa từng người trong chúng ta đâu phải ngẫu nhiên chọn lấy con đường này. Chúng ta sẽ có lỗi với ba đời du sĩ. Chúng ta dễ dàng bỏ cuộc, mai mốt thiên hạ ai người cho cơm du sĩ nữa. Hãy quên đi nắm đất sét của người ta, tụi mình còn có cái khác lớn hơn.

Cứ vậy mà nhóm du sĩ cũng đã tiếp tục lên đường đầy đủ túc số, không mất một ai. Họ đi về phía mặt trời mọc để sống qua ngày và về phía trời lặn để tìm chỗ qua đêm. Họ tiếp tục đi với hai bàn tay không sự sản và qua mấy mùa mưa nắng, họ đã bao lần dừng lại để an táng những du sĩ vĩnh viễn nằm lại bên đường và đón nhận thêm những du sĩ trẻ tuổi để giữ lại một dòng chảy….
Nhóm du sĩ đã gặp gỡ và đã chia tay biết bao là những đồng đạo khác nhóm, rồi thì một ngày kia họ đã hạnh ngộ với một đoàn du sĩ xem chừng chưa gặp qua bao giờ. Căn cơ, bài bản và thanh tịnh…Nét chung của họ là vậy. Bậc thầy của họ nghe đâu là một ông hoàng bỏ ngôi đi tu. Sau ba ngày đêm sống cạnh nhau ở một góc rừng, thầy trò của Nilanetra tiếp tục lên đường và ba năm sau, sư phụ của Nilanetra đã vĩnh viễn nằm xuống ở một thôn nghèo. Trước lúc nhắm mắt, lão du sĩ nhìn quanh các đệ tử và thều thào:
- Ta đi rồi, các con hãy về với họ. Ba năm nay, ta chỉ đợi ngày này…Chúng ta chỉ có mỗi cái bát đất, chưa đủ để qua sông đâu, các con ạ. Hãy về với họ. Hãy nhìn kỹ , họ không nắm giữ bất cứ cái gì hết. Kẻ qua sông thực sự phải vậy các con à !

Mùa mưa năm đó qua đi, nhóm du sĩ huynh đệ của Nilanetra chính thức chia tay nhau. Tăng đoàn gặp gỡ ngày trước đã nhận hết bọn họ. Riêng Nilanetra tiếp tục con đường cũ. Chàng hiểu rõ lý do mình chọn lấy quyết định đó. Trên đời này không phải lúc nào cái tốt nhất cũng cái hay nhất. Chàng chọn lấy cái gì vừa sức mình. Sau khi về thăm ngôi tháp đá thờ tro cốt sư phụ, Nilanetra trở lại ngôi làng cũ để gặp lại người xưa lần cuối. Người con gái năm nào giờ đã ra kẻ lạ khi nhìn thấy cố nhân. Giàu có và hạnh phúc, nàng lạnh lùng như không còn nhớ mặt người cũ. Vài chiếc bánh, một chén sữa….Ðó là những gì chàng nhận được bây giờ.
Nilanetra lên đường với một tâm cảm thật lạ, thanh thản nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng vì thấy mình giờ không còn gì để nặng lòng nữa, dù đôi lần trong những đêm khuya vẫn còn nghe một chút ngậm ngùi không tên. Và những buồn vui ấy đã hoà tan vào bài tập hơi thở mà Nilanetra đã học được từ một tăng sĩ áo vàng mà chàng vẫn gọi là Người Bên Ấy với một khẩu quyết thiệt ngộ:

Biết rõ hơi vào ra
Không người cũng chẳng ta
Những buồn vui thiện ác
Gì cũng áng mây qua …

LÃNG MINH
LÃNG MINH


Hai mươi năm sau, vào một buổi chiều của năm 563 trước Tây Lịch, Nilanetra bắt gặp một nhóm tăng sĩ áo vàng, có cả một sư huynh của mình ngày trước, đang sụp mình đảnh lễ một gò đất từ xa…Ông lại gần hỏi thăm. Họ bồi hồi cho ông biết đức Thích Tôn gì ấy đã viên tịch hơn tháng qua, gò đất kia chính là chỗ dựng đài hỏa táng…
Biết mình đã lỡ dịp gặp mặt một bậc đại giác, lại nghe kể chuyện ngày sau khi Phật Pháp sắp mãn kỳ tăng sĩ chỉ còn một mảnh vải vàng trên cổ, Nilanetra bất giác đưa tay nắm chặt tấm áo choàng của mình:
-Ta không có thần thông để trong nháy mắt có thể đi ngàn dặm không gian, nhưng rõ ràng ta đã vì thiếu duyên mà đi trước mấy ngàn năm thời gian để tới được thời mạt pháp trước bao người thiên hạ !

TÁC GIẢ TOẠI KHANH. Megahut, đầu hạ 2009.

30.3.21

Mù lòa tác giả Jose saramago

MÙ LÒA Tác giả Jose Saramago

Một người đàn ông đang lái xe ô tô bỗng dưng hóa mù. Một người qua đường đưa ông ta về nhà cũng hóa mù theo. Người bác sĩ nhãn khoa khám cho người đàn ông bị mù đầu tiên cùng những người bệnh trong phòng chờ hôm ấy đều bỗng dưng chẳng nhìn thấy gì nữa ngoài một sắc trắng như “bơi giữa biển sữa”. Bệnh mù trắng như căn bệnh lây lan khắp nơi, khiến tâm lý người dân hoảng loạn.



Mù lòa tác giả Jose saramago
Mù lòa tác giả Jose saramago


Những người phát bệnh đầu tiên cùng những người có khả năng phát bệnh bị chính phủ tập trung lại một chỗ và giam trong một nhà thương điên, để ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh này. Họ bị cách ly hoàn toàn, bị những người có vũ trang canh gác, phòng khi họ chạy trốn. Và những ai có ý định hoặc bị ngờ là có ý định trốn đi đều bị bắn chết không thương tiếc.

Những con người văn minh là vậy khi bị nhốt vào đây bị đối xử vô cùng tồi tệ, và mọi cách hành xử văn minh của họ dần dần cũng mất đi theo. Họ đành tự tổ chức cuộc sống trong một cộng đồng mới không khác mấy so với xã hội loài người theo chủ nghĩa không tưởng vạch ra. Người sáng mắt duy nhất giúp đỡ họ là vợ của ông bác sĩ nhãn khoa, người đã nói dối là mình bị mù để “được” nhốt vào đây với chồng. Thế rồi, ngoài việc bị giam giữ, thiếu thốn đủ đường, đối mặt với tình trạng mất vệ sinh, thiếu đồ ăn, họ còn bị những kẻ mù côn đồ có vũ khí khác ức hiếp. Để tồn tại họ phải hy sinh mọi phẩm giá để nương tựa nhau mà sống, và có lúc không chịu nổi đè nén đã vùng lên để giành lấy công lý.

Căn bệnh mù tiếp tục lan ra ngoài những bức tường (của nhà thương điên). Trong khi chạy thoát khỏi một vụ cháy ở trong “nhà giam”, những người mù phát hiện ra các binh lính canh gác họ đều hóa mù hết nên giờ đây không ai cản họ trở lại với cuộc sống bên ngoài nữa. Các nhân vật trung tâm gồm vợ chồng bác sỹ nhãn khoa và 3 nam 2 nữ khác cùng tạo thành một nhóm để “trở về”. Nhưng cả xã hội lúc ấy đã đảo lộn.

Đây quả là một cơn ác mộng thực sự: một xã hội thành thị bậc cao nhanh chóng trở lại trạng thái xã hội man rợ khi toàn bộ cơ sở hạ tầng của cộng đồng sụp đổ và sự ủng hộ lẫn nhau cũng như nghĩa vụ giữa mọi người bị phá vỡ. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ vào chiếm cứ nhà người kia, v.v… Và một lần nữa, bà vợ ông bác sỹ lại lèo lái giúp nhóm người của mình vượt qua cơn khủng hoảng này.

Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện, và hơn hết là một sự suy ngẫm về con người chúng ta, như lời bà vợ ông bác sĩ: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”.


Mù lòa tác giả Jose saramago. txt
Mù lòa tác giả Jose saramago. pdf
Mù lòa tác giả Jose saramago . docx


10.9.20

Dân vịt

Phanblogs Dân vịt. Giờ em sẽ viết về dân vịt. Vâng, đây là lần đầu tiên em nhắc đến dân vịt, chuyện thế này.


Em có lần nói với anh là nhà máy nơi em đang làm việc đây có cơ ngơi rộng ơi là rộng, có rừng, có hồ, lại còn gì gì nữa ấy. Thong dong tản bộ thì chả còn gì bằng. Hồ khá to, có dân vịt sống ở đấy, đâu như mười hai chú. Em chả biết mấy chú này tổ chức gia đình ra sao. Có lẽ chúng thỏa thuận nội bộ với nhau thế nào đó, kiểu như chú này thì chơi được với chú nọ nhưng không được chơi với chú kia, nhưng em chưa bao giờ thấy chúng đánh nhau cả.

Dân vịt

Đã sang tháng Mười Hai, băng đã bắt đầu đóng trên mặt hồ, nhưng cũng chưa dày lắm. Ngay cả khi trời lạnh hồ vẫn không đóng băng hết, vẫn còn một khoảnh nước đủ cho dân vịt bơi loanh quanh tí chút. Em nghe nói, khi trời đủ lạnh để băng đóng dày, có vài cô trong bọn em ra đây trượt băng. Chừng đó thì dân vịt (hì, gọi thế nghe cũng lạ, nhưng em quen mất rồi, tự buột mồm ra thôi) sẽ phải đi chỗ khác. Em thì chẳng thích trượt băng, nên em chỉ mong đừng có băng biếc gì hết, nhưng dẫu có mong thì cũng đâu thể được như ý mình. Vùng này mùa đông lạnh kinh người, thành thử một khi đã sống ở đây thì dân vịt ắt phải thích nghi với lãnh thổ chứ.

Dạo này, cuối tuần nào em cũng tới đây giết thì giờ bằng cách ngắm dân vịt. Mỗi lần như vậy, em có thể ngồi hàng hai ba tiếng đồng hồ mà không biết. Ra ngoài trời lạnh là em vũ trang từ đầu tới chân y như thợ săn gấu Bắc Cực ấy: tất lót, mũ, khăn choàng, giày cao cổ, áo khoác lông. Rồi em ngồi hàng tiếng đồng hồ trên một tảng đá, chỉ mình em, hoàn toàn thư giãn, ngắm dân vịt. Thỉnh thoảng em cho chúng ăn bánh mì cũ. Dĩ nhiên ở đây chẳng có ai khác dư thì giờ làm mấy chuyện điên rồ ấy cả.

Chẳng rõ anh Chim vặn dây cót có biết không, chứ vịt là một loài rất dễ thương. Em ngắm chúng chả bao giờ chán. Em không làm sao hiểu được, vì sao ai cũng thích đi đâu đó thật xa hay bỏ tiền xem những bộ phim ngớ ngẩn thay vì dành thì giờ vui với dân vịt. Chẳng hạn như thỉnh thoảng chúng lại vỗ cánh bay lên không trung rồi đáp xuống băng nhưng lại trượt chân, thế là ngã oạch oạch. Y như xem hài kịch trên ti-vi ấy! Xung quanh chẳng có ai khác, thế mà em vẫn cười sặc sụa. Dĩ nhiên đâu phải chúng làm trò để cho em cười. Chúng đang cố hết sức mình để sống cho ra sống đấy chứ, chỉ có điều thỉnh thoảng một cái thôi. Thế mới thật là hay, em nghĩ vậy.

Dân vịt có những cái chân có màng dẹt mầu cam đến là dễ thương, như là chúng mang giày đi mưa nhỏ xíu của trẻ con ý, chỉ có điều chân ấy không sinh ra để đi trên băng, em đoán vậy vì em thấy chúng cứ trượt tới trượt lui suốt, có khi còn ngã phịch mông xuống, chổng cẳng lên trời nữa. Giày ấy ắt là không có núm chống trượt. Thành thử mùa đông thật chẳng phải là mùa vui vẻ gì cho dân vịt. 

Em tự hỏi, trong thâm tâm chúng nó nghĩ gì về băng hay những thứ tương tự. Em dám cá rằng chúng chẳng ghét bỏ gì mùa đông lắm đâu. Nhìn chúng nó em cảm thấy vậy. Xem ra chúng sống cũng khá vui vẻ đấy chứ, dẫu đang mùa đông, có chăng thì thỉnh thoảng chỉ tự càu nhàu: “Lại băng à? Đành vậy thôi…” Em thích dân vịt là còn thích điều ấy nữa.

Hồ nằm chính giữa rừng, từ đâu đến đây cũng xa. Chẳng ai khác (ngoài em ra, dĩ nhiên!) buồn cuốc bộ ngần ấy đường để đến đây vào mùa này, ngoại trừ những hôm thật ấm. Em đi theo lối mòn xuyên qua rừng, giày em nghiến lạo xạo trên lớp băng còn lại từ trận mưa tuyết gần đây. Em thấy xung quanh đâu cũng toàn chim. Mỗi khi em dựng cao cổ áo lên, khăn quàng quấn cổ kín tận cằm, mỗi hơi thở ra là thành bụm khói trắng trong không khí, với một khúc bánh mì tận trong túi, cứ thế men theo đường mòn xuyên qua rừng mà nghĩ về dân vịt, em lại thấy lòng thực sự ấm áp, hạnh phúc, và em chợt nghĩ ra rằng đã lâu lắm rồi mình không thấy hạnh phúc như vậy.

Thôi, chuyện dân vịt thế là đủ.

2.8.20

Lâu đài Tác giả Franz Kafka

Phanblogs Lâu đài Tác giả Franz Kafka Hoàn cảnh sáng tác và tóm tắt tác phẩm
“Lâu đài” được Kafka thai nghén trong khoảng 5 năm, từ sau khi ông được dự đoán là mắc bệnh lao vào năm 1917. Theo nhật ký của Kafka, ông đã đang chuẩn bị cho tiểu thuyết “Lâu đài” (Das Schloss) ngày 11/ 6/1914( giai đoạn thế chiến thứ nhất bùng nổ), tuy nhiên phải đến 27/1/1922 ông mới bắt đầu viết nó.

Lâu đài Tác giả Franz Kafka
Lâu đài Tác giả Franz Kafka 


Tiểu thuyết kể về K., một người làm đạc điền đến Lâu đài của bá tước West West để làm việc. Chàng được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và một chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như bà chủ quán trọ, anh chàng đưa thư Barnabás và người chị là Olga, thậm chí có người yêu là Frida, nhưng K. không sao đến được lâu đài hay gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo; anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao đến được đó, cũng như không sao gặp trực tiếp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Dù đã cố gắng hết sức để tìm hiểu Lâu đài – thiết chế quyền lực thống trị nhưng K. vẫn không thể lý giải nổi nó. K đành phải chờ và sống mòn mỏi, kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi, trong khi những người dân làng không chấp nhận chàng, cô người yêu Frida cuối cùng cũng mệt mỏi bỏ rơi K. để theo một tên phụ tá của chính chàng. Kết thúc câu chuyện K. vẫn còn lang thang vô định trước tòa lâu đài.

Cũng như nhiều tác phẩm khác của Kafka, “Lâu đài” là một câu chuyện còn dang dở. Nhà văn đã định viết tiểu thuyết tự thuật, nhưng rồi nhân vật xưng Tôi đã được chuyển thành K.. Theo Brod, người cho xuất bản cuốn tiểu thuyết, Kafka dự định sẽ kết thúc tác phẩm bằng chi tiết chàng đạc điền K., khi đã đợi chờ đến kiệt sức gần chết thì nhận được thông báo từ Lâu đài cho phép chàng lưu trú ở làng.

Nhân vật chính của “Lâu đài”, anh chàng làm nghề đạc điền K., vì phải sống mòn mỏi trong chờ đợi nên chàng có cảm tưởng hiện thực cuộc sống chỉ là những ảo ảnh, K. không sao lý giải được sự chờ đợi phi lý ấy. Được tác giả chọn lọc, nhân vật K. mang tính chất biểu trưng, nó có tầm khái quát và tạo nên hình tượng văn học ẩn chứa trong mình một tư tưởng triết học: tình trạng bị bỏ rơi nên cô đơn, bất lực, trở nên con người xa lạ giữa đời thường.Miêu tả sự bế tắc, luẩn quẩn, kết hợp những đoạn siêu thực về Lâu đài và cuộc sống của những người ở đó, tác phẩm tập trung vào sự thờ ơ của xã hội, tính quan liêu, sự vỡ mộng dường như vô hạn của nỗ lực nhằm chống lại hệ thống quan liêu đó, và sự truy tìm vô ích, vô vọng cho một mục tiêu không thể nào đạt tới.

Motif lâu đài trong sáng tác của Kafka

Có thể nói Franz Kafka là nhà văn sớm nhất kiến tạo nên thủ pháp huyền thoại trong văn học. Những dạng thức mà ông thường sử dụng là motif thần thoại phương Tây, nhại huyền thoại và huyền thoại hóa thế giới hiện thực. Và lâu đài là một trong những motif đáng chú ý nhất trong sáng tác của ông.

Motif lâu đài (hay gọi chính xác hơn là motif mê cung) nằm trong dạng thức thần thoại phương Tây, hình ảnh tòa lâu đài vốn là một hình ảnh thực trong đời sống nhưng khi đi vào tác phẩm của ông nó lại trở thành một cái gì đó thật “huyền thoại”, một dạng mê cung, mê thất khiến con người trở nên xa lạ, lạc lõng và mất phương hướng trong nó. Điều này đã làm nên không khí huyễn hoặc, hư ảo trong sáng tác của ông. Từ việc xây dựng motif lâu đài trên, Kafka muốn hướng người đọc tới việc hình dung những con người, thân phận con người trong đời sống hiện tại. Lâu đài hay tòa án, hang ổ là mê cung, là những nơi con người không thể nhìn thấy nhưng nó có khả năng chi phối và đè bẹp họ. Chẳng hạn như Jozep K. trong “Vụ án”chấp nhận cái chết mà vẫn không thể biết được mình mang tội gì và càng không thể hiểu được cái hệ thống tòa án đã kết tội mình. K. trong “Lâu đài” tìm kiếm Lâu đài với mong muốn mình được chấp nhận, nhưng tòa Lâu đài ẩn hiện trong màn sương dày đặc ấy cứ mãi mãi ngoài tầm với. Cái phi lí của sự tồn tại của con người là đấy: họ lạc vào mê cung của “lâu đài” thiết chế vô hình đè bẹp cuộc sống của họ và họ phải chấp nhận sự phi lí ấy để tồn tại tiếp tục.

Lâu đài trong văn chương Kafka không chỉ là một biện pháp nghệ thuật mà còn là “một biện pháp để cảm thụ thế giới”. Theo Ths.Thái Thị Hoài An thì đó “là phương tiện miêu tả ẩn dụ về thế giới, đem tới cho người đọc những cảm nhận hoặc quan niệm về thế giới thực tại của nhà văn. Nói một cách cụ thể, huyền thoại giúp F. Kafka thể hiện cảm quan của ông về sự phi lí, tha hóa, cô đơn, về thân phận trong guồng quay của xã hội hiện đại.”

Con người và nỗi cô đơn trong "Lâu đài"

“Có thể nói Franz Kafka là nhà văn đã cảm nhận một cách sâu sắc nhất nỗi cô đơn trong thời gian của con người hiện đại. Đó là nỗi cô đơn khi con người (buộc phải) giã từ quá khứ, đứng giữa hiện tại và đối diện với tương lai bấp bênh đầy bí ẩn. Ấy là khi con người cảm thấy hoang mang và lo sợ. Con người tìm kiếm và nỗ lực tạo lập các mối quan hệ mà quên mất rằng các mối quan hệ đó không giúp được nó thoát khỏi nỗi cô đơn thời gian. Nhưng chí ít thì đó cũng là một niềm an ủi, và là lối thoát cuối cùng trong sự bất lực của con người trước số phận.” (Bài viết “Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka” được in trong Lâu Đài, Nxb Văn học, 1998). Hình tượng nhân vật K. trong cuộc hành trình vô vọng tìm tới Lâu đài chính là sự thể hiện nỗi cô đơn tuyệt đối ấy.

là một người ở nơi khác được Lâu đài gọi đến để làm công việc đạc điền. Tuy nhiên, khi K. tới làng, chàng rơi vào một tình cảnh vô cùng trớ trêu. Chàng không thể làm công việc của mình vì sự nhầm lẫn mà theo như ông trưởng thôn thì ắt phải có của những người nhiều công nhiều việc, và thậm chí, chàng còn không thể xin được giấy phép lưu trú ở làng. Sự tồn tại của K. nằm bên ngoài Làng – bên ngoài xã hội.

Dõi theo những bước chân của K., độc giả sẽ nhận ra cô đơn lạc lõng chính là “từ khóa” cho hành trình của chàng. Đầu tiên, K. bơ vơ, lạc lõng trong công cuộc tìm kiếm chỗ ở. Mới đêm đầu tiên đến làng, sự xuất hiện của chàng đã có cái gì đó bất an, chàng là một “ông khách đến muộn” khiến cho chủ quán “bất ngờ và bối rối”. Sự lạc lõng đã gợn lên đâu đó ngay trong chi tiết quán trọ “không còn phòng cho thuê” – làng hết “chỗ” cho sự có mặt của K. và chính vì thế, sự có mặt của chàng dường như là thừa thãi. Rồi ngay sau đó đã bị người ta đánh thức dậy vì không có giấy phép từ ngài bá tước. Họ bắt buộc chàng phải rời đi ngay trong đêm tối và chàng thì đang vô cùng mệt mỏi. Sau này, khi đã ở trọ tại quán Bên cầu, K. càng nhận thức sự bơ vơ, lạc lõng của mình nhiều hơn nữa khi bà chủ quán trọ cứ luôn ca thán rằng K. sẽ không thể vào quán trọ của bà nếu hôm đó, tức cái hôm đầu tiên K đến, bà không lơ đãng để ông chồng của mình coi quán. Đến cả những người hầu gái, chủ nhân của căn phòng mà K. và Frida ở cũng lấy làm vui mừng khi K. phải chuyển đi. Và, khi tới ở trong trường học thì thầy giáo, người quản lý ở đó và cả những đứa trẻ cũng không chào mừng K.

Thứ hai, K. cô đơn, lạc lõng trong thân phận của mình. K. không phải người của làng nên không được làng chấp nhận. Dù đi tới đâu, K. cũng là đối tượng cho những con mắt soi mói của dân làng. Đặc biệt, lúc ở trong phòng tắm chung của làng, chàng đã bị người ta đuổi ra ngoài không thương tiếc. Mọi người không tỏ ra hiếu khách và như họ nghĩ, họ không cần sự xuất hiện của người khách đó. Với Lâu đài cũng thế. K. tuy được Lâu đài gọi đến nhưng cũng không phải là người của Lâu đài. Bằng chứng là việc Klamm gửi bức thư đầu tiên cho K. nói rằng chàng không được lên Lâu đài mà chỉ phải làm việc với ông trưởng thôn và thông báo những yêu cầu cho người đưa thư. Phạm vi cư trú và hoạt động của K. đã bị giới hạn trong một bức rào chắn. Rõ ràng, K bị cô lập hoàn toàn. Chàng sống đâu đó ở giữa mối liên kết giữa làng và Lâu đài nhưng lại không thuộc về làng, mà cũng không thuộc về Lâu đài.

Chính vì thế, K. phải cố gắng tìm kiếm những mối quan hệ. Chàng tiếp xúc với nhiều người, nói chuyện với nhiều người mặc cho họ không hề chào đón mình. Ta có thể thấy rõ điều này khi K. làm quen với người thầy giáo lúc ông ta ở cái điếm canh nhỏ sau trường học, hay khi chàng xin ghé lại nghỉ chân ở một ngôi nhà lúc bị lạc trong mê lộ đến Lâu đài. Nhân vật K. nỗ lực tìm kiếm sự quan tâm mọi người một cách vô vọng. Điều này cũng thường thấy trong các sáng tác khác của Kafka.

Nhân vật chàng đạc điền K. vô danh tới mức không có được một cái tên đầy đủ: tên chàng là một chữ viết tắt bình thường đến tầm thường, như thể nó không cần và không đáng được quan tâm. Họ của chàng hoàn toàn không được nhắc đến trong tác phẩm. Điều đó hết sức phi lý. Ở một con người, họ tên là điều cơ bản nhất. Họ là một dấu mộc của quá khứ đóng lên mỗi con người, là mối dây cơ bản nối kết người đó với tổ tiên. K. không có họ, có phải là vì nhân vật đã bị tách khỏi chỗ dựa quá khứ của mình? (Trong tác phẩm, chỉ có duy nhất một lần K. nghĩ tới chuyện lâu rồi chưa về thăm quê nhà. Hầu như chàng chỉ quan tâm tới Lâu đài ở hiện tại không bận tâm gì đến quá khứ, kể cả khi hiện tại đó có đánh đố và làm chàng mệt mỏi.) Tên, ngược lại, là một sở hữu riêng thuộc về con người, “gọi tên” một người là hành động đầu tiên cơ bản nhất thể hiện sự nhìn nhận đối với người đó. Chàng đạc điền K. không có cái tên đầy đủ, có phải là sự tồn tại của chàng đã ở mức “dưới con người” hay “ngoài cộng đồng” đối với dân chúng trong làng? Xây dựng một hình tượng nhân vật không có đến cả họ tên, có phải Kafka muốn tạo nên một ẩn dụ thâm trầm về hiện tượng con người nhỏ bé bị “mất gốc”, bị bứt khỏi những điểm tựa vốn có để bắt đầu một hành trình vô định? Một khi không còn chỗ dựa, nỗi cô đơn lạc lõng hẳn sẽ là không tránh khỏi.

Những nét tính cách nổi bật
Một con người lý trí và có óc xét đoán


K.trước hết là một con người độc lập. Chàng đủ tỉnh táo để không sợ hãi trước quyền lực của Lâu đài dù chính chàng đã rất nhiều lần chứng kiến thái độ sợ hãi của dân làng đối với quyền lực đó. “Còn nếu họ tưởng rằng việc nghiễm nhiên thừa nhận chàng là người đạc điền có thể làm cho chàng sợ thì họ đã nhầm: chàng chỉ hơi chờn chợn một chút, tất cả chỉ có thế!”. Dù sau đó Lâu đài đã thể hiện được quyền lực đối với chuyện cư ngụ của K. trong lãnh địa của họ, thế nhưng uy quyền đó cũng không làm cho chàng sợ hãi và tuân phục.

Xem xét kỹ những bức thư mà Lâu đài nói chung hay Klamm nói riêng gửi cho mình, chàng vẫn đủ tỉnh táo để dễ dàng nhận ra sự phi lý trong những bức thư đó: “Lá thư không nhất quán, có chỗ người ta nói với chàng như nói với một người tự do, có ý chí riêng: cách xưng hô hoặc chi tiết nói về những yêu cầu của chàng là những chỗ như thế. Ở chỗ khác, thì một cách thẳng thắn hoặc bóng gió, người ta xử sự với chàng như với một người lao động vô danh tiểu tốt, người mà từ chiếc ghế của một ngài chánh văn phòng nào đó thì khó mà có thể nhận ra.” Khi tranh luận với bà chủ quán và những người khác, chàng đều đưa ra những lập luận vô cùng sắc bén, khó lòng mà lật đổ được. Chàng ta cũng nhận thức rõ rằng mình có quyền từ chối cuộc thẩm vấn vô lý mà viên thư ký làng của Klamm yêu cầu mình tham gia…

Rõ ràng, K. là một người mong muốn sự tự do và sẽ cố gắng tranh đấu để tìm ra sự tự do cho mình. Chàng không dễ dàng bị khuất phục bởi quyền lực, đặc biệt là thứ quyền lực chuyên chế đến phi lý như ở Lâu đài.

Một con người nóng tính nhưng đầy quyết tâm theo đuổi mục tiêu


Ta có thể thấy K. nóng tính khi chàng liên tục chửi bới hay đánh những người giúp việc của mình chỉ vì họ nói và hành động những việc ngốc nghếch. Khi nhìn thấy những người giúp việc làm điều gì không vừa ý, thường trực ở K. là những câu nói đại loại như: “Im đi! Các anh đã bắt đầu khác nhau đấy hả?”, “Các người muốn gì tôi hoài vậy?”, “Cút! Nếu các anh đến đón tôi, tại sao các anh không mang gậy của tôi theo? Bây giờ lấy gì để tôi đuổi các anh về nhà?”… Chàng cảm thấy bực mình, khó chịu với những việc mà bọn họ làm: “Nhưng họ là gánh nặng đối với tôi”, “Không, họ chỉ bám theo đuôi tôi ở đây”, “Lại những người giúp việc”… Tuy nhiên, thái độ này hoàn toàn có thể được lý giải bằng tâm trạng chán chường của người bị níu chân trong mê lộ Lâu đài, trong chính cái soi mói, nhiễu sự của hai kẻ phụ tá đó – chúng bám theo K. hoàn toàn không phải vì công việc đạc điền.

cũng rất nôn nóng, sốt sắng trong công việc. Ngay ngày hôm sau đến làng, chàng đã cố gắng tìm đường lên Lâu đài mặc dù càng đi càng thấy mình sai đường. Việc đi theo người đưa thư cũng xuất phát từ quyết tâm tìm kiếm Lâu đài, vì chàng nghĩ anh ta sẽ lên Lâu đài ngay khi quay về.

Đồng thời, con người này cũng khiến người đọc chú ý bởi sự kiên trì, nỗ lực trong việc theo đuổi mục tiêu của mình. Chàng khao khát tìm kiếm sự thật về thế giới mà mình đang sống, muốn làm rõ ràng mọi vấn đề đang bị che lấp bởi quyền lực. Dù bị lạc nhiều lần trên con đường tìm đến Lâu đài, dù vướng phải sự nhiêu khê của những viên thư kí, sự ngăn cản quyết liệt của bà chủ quán, K. vẫn luôn kiên trì tìm đường lên đó, mặc cho cơ thể mệt mỏi và lạnh cóng. Anh cũng sẵn sàng đi theo người đưa thư mới gặp chỉ vì nghĩ anh ta có thể làm cho mình đạt được mục đích là lên được Lâu đài. Kể cả việc K. tìm đến quán Ông chủ cũng không ngoài mục đích trên.

Một con người chung thủy trong tình yêu


là một chàng trai chung thủy. Chàng yêu Frida và nhất mực bảo vệ tình yêu ấy. Dù đã nghe nhiều lời nói xấu Frida từ Pepi và Olga nhưng chàng luôn tin tưởng và bảo vệ người mình yêu trước những lời nói ấy. Dù biết Olga yêu mình nhưng chàng vẫn một mực chung thủy với Frida và luôn giữ khoảng cách với Olga. Không muốn giấu Frida bất cứ điều gì nên chàng nói cho cô biết những suy nghĩ của mình, kể cả khát khao lớn nhất là tìm đến Lâu đài, và không ngần ngại để tên giúp việc biết mình đã đến nhà Olga. Tin tưởng vào Frida nên chàng thực sự bàng hoàng khi biết Frida đã quyết định theo một tên giúp việc. Và, chàng đã tuyệt vọng cố gắng níu giữ lấy Frida khi cô ta rời đi: “Bởi vì em không yêu hắn, cùng lắm là em tưởng như thế, và em sẽ cám ơn anh nếu anh phá tan sự lầm lạc của em.” Thông qua đây, ta thấy K là một con người khát khao có một gia đình êm ấm “và bây giờ khi mà chúng ta đang chuẩn bị cưới nhau, em lại về nơi đó sao?”.

Một con người nhạy cảm với thế giới


Đây là một phẩm chất đặc biệt đáng chú ý ở nhân vật K. và cũng là dấu ấn rõ nhất mà thiên tài Kafka để lại trên nhân vật này, khiến người đọc hoàn toàn có cơ sở để suy ra rằng cái tên K. trong tác phẩm trước tiên là chính viết tắt của chữ Kafka. Franz Kafka vốn nhạy cảm đến mức cực đoan, nhưng chính sự nhạy cảm đó lại là cơ sở cho những tiên cảm của ông về thế giới, mà nói như Ernst Fischer (Áo) trong “Kafka” thì “Chính làn da mềm mại, sự nhạy cảm và bất lực của Kafka trước thế giới người cha đầy thế lực đã làm cho ông, thiên tài của sự yếu ớt, có khả năng vô cùng đặc biệt trong việc nhận biết những chi tiết và giải mã chúng như giải mã những bí ẩn của một hiện thực còn chưa được phát hiện.”

Trong “Lâu đài”, sự nhạy cảm đến kỳ quặc của chàng đạc điền K. được thể hiện trong những chi tiết rất nhỏ, chẳng hạn như trong một cuộc đối thoại vu vơ:

“- Cô là ai? – K. hỏi.

– Một cô gái đến từ Lâu đài, – nàng trả lời cộc lốc. Không thể hiểu là sự miệt thị này dành cho K. hay cho chính câu trả lời của nàng.”

Chỉ một câu trả lời quá ngắn gọn (hay quá thừa bởi hai chữ “Lâu đài”?) cũng đủ khiến cho K. cảm thấy sự miệt thị, cũng đủ khiến chàng suy nghĩ và bất an. Chàng quá nhạy cảm với “Lâu đài”, hay đúng hơn là với thiết chế quyền lực này. Cũng bằng bản chất đó, K. cảm nhận những nứt rạn đầu tiên của xã hội “kiểu Lâu đài” mà trong đó chàng đang tồn tại: “K. biết rằng người ta không thể đe dọa chàng bằng sự cưỡng chế thật sự, chàng không sợ điều đó mà chỉ sợ cái quyền uy ngoại cảnh làm cho mình chán nản, sợ sự dửng dưng mệt mỏi của mình trước những thất vọng, sợ sức mạnh của những tác động không thể nhận thấy đang từng giây lát có thể đến với chàng. Chàng cần chấp nhận cuộc đọ sức với những nguy cơ này”…

Phải lang thang không điểm tựa giữa một thế giới hoàn toàn xa lạ, dự cảm về cái mong manh tồn tại dai dẳng trong chàng ngay cả trong những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi. Có những lúc, chàng cảm thấy “hạnh phúc vì có thể giữ cô gái trong tay mình, nhưng trong hạnh phúc chàng cũng hoang mang, vì cảm thấy nếu Frida bỏ chàng thì tất cả những gì chàng có đều từ bỏ chàng”… Ôm người yêu trong tay mà vẫn nghĩ đến sự chia lìa và từ bỏ, sự đối lập đó thể hiện bản chất bất an của con người trước thế giới; tình yêu không khỏa lấp nổi sự cô đơn, không đủ đảm bảo cho sự gắn kết, không đủ làm cầu nối cho chàng đến với thế giới. Trong tình yêu, còn đó cả sự chông chênh – cũng như trong bất cứ một mối quan hệ nào khác mà nhân vật của Kafka có được.

Một khía cạnh khác của bản chất nhạy cảm trong nhân vật này là cảm giác thất vọng thường trực. “Chính chàng cũng không biết tại sao mình lại cảm thấy thất vọng đến thế khi nhận ra kẻ giúp việc…Vậy mà chàng vẫn cảm thấy thất vọng, chàng tưởng họ là người lạ chứ đâu nghĩ là những người quen cũ mà mình đã chán đến tận cổ này”.Chỉ là những kẻ giúp việc cũ cũng gây nên nỗi thất vọng. Thất vọng trở thành một phản xạ của con người trước thế giới, tiếng thở dài đó loang ra trên mọi sự vật dù là bình thường nhất. Kể cả những điều đơn giản nhất khi đi qua lăng kính của chàng cũng không còn ở nguyên trạng nữa. Không thể nói rõ được tại sao. Đó là nỗi thất vọng không thể lý giải trước một thế giới không thể lý giải.

Nếu so với kiểu con người nhỏ bé, thảm hại trong thế giới tác phẩm của Kafka (như một đứa con sẵn sàng chấp nhận bản án của người cha hay anh chàng Samsa chấp nhận vật hóa mà không hề trăn trở chuyện làm thế nào trở lại lốt người), nhân vật K. trong “Lâu đài” rõ ràng có nhiều khía cạnh tốt đẹp hơn. Chàng là một người tinh tế với nhiều suy tư, trăn trở; đồng thời cũng là một người lý trí có khả năng suy xét thấu đáo sự việc một cách độc lập. Chàng không sợ hãi hay khúm núm trước quyền lực mà ngược lại, luôn mong muốn khám phá nó, kéo mọi người xung quanh ra khỏi sự chi phối của quyền lực đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của K., tất cả những phẩm chất đó, đặc biệt là sự nhạy cảm đến khó lý giải trước những biến đổi tế vi của xã hội và con người, không giúp gì được cho chàng. Ngược lại, nó chỉ càng làm chàng cô độc hơn mà thôi.

Lâu đài – Cội nguồn của nỗi cô đơn

Sự nhạy cảm đến kỳ quặc của K. trước thế giới có thể là tiền đề cho nỗi cô đơn mà chàng phải mang; tuy nhiên, cô đơn sẽ chỉ hiện lên rõ ràng nhất khi con người tự soi mình trong một mối quan hệ nào đó. (Hẳn là kẻ sống một mình ở đảo hoang hay rừng rậm rất cô đơn, nhưng sẽ là cay đắng hơn khi người ta sống giữa một cộng đồng mà vẫn cảm thấy mình trơ trọi không nơi nương tựa. Văn chương xưa nay hay viết về nỗi cô độc của con người trước xã hội, chứ ít ai nói về nỗi cô đơn của những chàng Robinson nơi hoang đảo.) Trong tác phẩm, nỗi cô đơn của chàng đạc điền K. bộc lộ trước nhất và sâu sắc nhất trong quan hệ với Lâu đài.

Trong tác phẩm, hình ảnh Lâu đài xuất hiện từ những dòng đầu, ngay trong cảm nhận của nhân vật K.: “Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không”.

Lâu đài hiện ra trong ấn tượng của K. khi vừa đến làng; ấn tượng đó là tuyết dày, đêm khuya, sương mù và bóng tối – tất cả những chi tiết này đều chỉ gợi lên sự mơ hồ, mù mịt, cảm giác bất an cùng nỗi lạc lõng khôn cùng của con người trước thế giới. Không một chút ánh sáng nào, dù là mờ nhạt nhất, chào đón chàng. Cả đoạn văn chỉ đơn thuần là một cảm nhận, nhưng sự cô đơn dường như đã hiện hình trong thế đứng của K. – một người lữ khách – người ta cô đơn khi phải tách ra khỏi nơi tồn tại quen thuộc để đến một không gian xa lạ hoàn toàn. Hình ảnh Lâu đài xuất hiện mà thực chất là không hề xuất hiện – K. biết đến Lâu đài, biết nó tồn tại, biết nó ở đó, ngay trên ngọn đồi, nhưng chàng không thể nào nhìn thấy nó. Nỗi cô đơn đã khởi phát ngay từ đầu tác phẩm như một ám ảnh, nó sẽ theo riết K. trên suốt con đường tìm vào Lâu đài của chàng.

Nỗi cô đơn của K. không phải là thứ cô đơn bản mệnh sinh ra và tồn tại cùng với con người như một món quà không mong đợi từ Thượng đế, vốn thường được miêu tả trong nhiều tác phẩm văn học lãng mạn. Nỗi cô đơn đó có nguồn gốc, có nguyên nhân, và có cả hướng giải quyết. Qua cuộc gặp gỡ không ngờ với kẻ tự xưng là con trai Quan phòng thành, K. rõ ràng đã nhận ra rằng, chỉ cần chàng gặp gỡ và làm việc với những quan chức của Lâu đài, vấn đề của chàng sẽ được giải quyết. Trong tác phẩm, “Lâu đài” trở thành một từ đồng nghĩa với “chính quyền”. Tìm đường đến Lâu đài là tìm cách gặp những nhân vật có quyền có thể xác nhận sự hiện diện của chàng trong ngôi làng. Vì lẽ đó, K. tìm mọi cách để đến được Lâu đài. Nhưng, đó là điều bất khả. Nỗi cô đơn lúc này không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả cho nỗ lực của chàng: càng quyết tâm đến với Lâu đài, chàng càng khiến dân làng xa lánh, và Frida, cầu nối duy nhất của K. với cuộc sống ở làng, cuối cùng cũng mệt mỏi từ bỏ chàng.

Lâu đài – quyền lực thống trị ám ảnh

Vừa đến làng, K. đã được biết rằng đối với dân làng, Lâu đài là hiện thân của quyền lực ghê gớm, qua người “có quyền” đầu tiên mà chàng gặp ở đây, một gã trẻ tuổi “tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành”. Theo lời gã, “Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sống hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài, phải có giấy phép của bá tước”. Quyền lực của Lâu đài thống trị toàn bộ cuộc sống ở làng.

Nhưng, tổ chức quyền lực đó thực chất là như thế nào? Đây là hình ảnh lâu đài khi không còn sự che giấu của bóng đêm: “Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại; những ngôi nhà ở đây chỉ khác những căn nhà gỗ làng quê là được xây bằng đá, nhưng lớp vữa trên tường đã tróc từ lâu, và hình như đá cũng đã lở vụn dần ra.”. Một hình ảnh hoàn toàn không tương xứng với quyền lực mà nó (được cho là) đang nắm giữ. (Và hẳn là cũng tương phản với những gì mà K. lẫn độc giả mường tượng về Lâu đài.) Qua lần giải thiêng, biểu tượng quyền lực đó hiện ra trần trụi đến thảm hại. Nó khác biệt với những căn nhà gỗ làng quê – nhà của những người dân bình thường ở chỗ “được xây bằng đá”, nhưng chính lớp đá đó lại thể hiện rõ nét nhất cái đổ nát của biểu tượng quyền lực – Lâu đài. Hình ảnh những ngôi nhà đá với lớp vữa bong tróc và đá lở vụn dần ra hẳn không báo trước một điều gì tốt đẹp – bộ máy quyền lực đó hoàn toàn tàn tạ, xuống cấp và đang trên đà tiêu vong. Có phải đó là một lời tiên tri của Kafka dành cho thiết chế xã hội đương thời?

Tuy nhiên, dường như chỉ có mình K. là nhận ra bản chất đó. Chàng cô đơn vì chàng tỉnh táo. Còn thực tế, đối với tất cả dân làng, Lâu đài có một quyền lực khủng khiếp. Tất cả mọi người trong làng đều sợ hãi khi nhắc đến Lâu đài, và thậm chí, đến cả những người giúp việc vô danh trong Lâu đài cũng trở thành kẻ quyền lực trước dân làng. Quán rượu có đông bọn tay chân của các quý ông từ Lâu đài được coi như quán rượu hạng sang. Đối với người dân, Lâu đài là một thứ tước hiệu, một chiếc vương miện vô hình mà bất cứ ai đội lên cũng trở thành sang trọng và quyền lực.

Một ví dụ có thể kể đến là Momus, thư kí của quý ông Klamm – người “của Lâu đài”. Chỉ là một trong rất nhiều những thư kí của Klamm, thế mà quyền lực của Momus đã đến mức chỉ cần một thoáng thái độ coi thường của K., bà chủ quán đã chột dạ tới mức phải cảnh báo chàng rằng “Trong trường hợp này tôi lưu ý ông rằng con đường duy nhất có thể đưa ông đến với Klamm là đi qua các biên bản của người thư kí đây. Tôi không muốn nói quá, có thể cả con đường này cũng không dẫn tới Klamm, nó có thể dừng lại ở cách xa ông ấy, việc này tùy thuộc vào ý định của ngài thư kí. Trong mọi trường hợp thì đây là con đường duy nhất đối với ông dẫn về hướng Klamm. Chẳng nhẽ ông muốn từ bỏ con đường duy nhất này không phải vì nguyên nhân nào khác mà chỉ vì ngang bướng sao?”. Việc K. có đến được Klamm hay không tùy thuộc hoàn toàn vào một viên thư kí! Có kẻ làm thư kí nào lại sở hữu thứ quyền lực kỳ quặc đó không?

Còn với Klamm, chức sắc cao nhất trong Lâu đài, quyền lực hẳn phải hơn thế nữa. Dân làng không ai biết được Klamm, chỉ một vài người có thể thấy ông ta qua cái lỗ nhỏ ở cửa phòng, tuy nhiên quyền lực của nhân vật này lớn tới nỗi bất cứ cô gái nào mang cái danh “người tình” của ông ta đều được kính trọng đến mức phi lý. “Ông hỏi tôi có biết Klamm không, trong khi tôi là… – Nói đến đây vô tình cô ta tỏ ra vênh váo, và cái nhìn đắc thắng của cô ta không liên quan gì đến điều họ vừa nói, lại lướt đến K. – Tôi là tình nhân của ông ấy”. Sự vênh váo “vô tình” đó chứng tỏ nó đã là một thói quen, môt cái gì đó hết sức thường trực, hết sức tất yếu mà tất cả mọi người đều chấp nhận. Cô gái đã quen tỏ ra như thế với mọi người, chứ không phải với chỉ riêng mình K. Frida chỉ là một cô gái phục vụ quầy rượu, nhưng quầy rượu đó lại là nơi người hầu của Lâu đài tụ tập và quan trọng hơn cô là “người tình của Klamm” (người tình, chứ không phải người yêu!), bấy nhiêu đó đủ cho Frida tự hào, để cô vênh váo, để Pepi và mọi cô gái khác khao khát… Những chi tiết phi lý được kể lại thản nhiên và điềm tĩnh một cách không thể tin nổi. Nó thách thức K. và thách thức cả độc giả. Chàng đạc điền càng hoang mang và cô đơn vì chẳng thể nào tìm hiểu nổi phương thức tồn tại của nó, và độc giả hoang mang vì một sự phi lý được coi là quá tất yếu.

Câu chuyện của Olga về những gì mà gia đình cô phải chịu càng thể hiện rõ niềm kính sợ mù quáng đó. Chỉ thái độ thẳng thừng của Amalia với người đưa thư (chỉ là một người đưa thư!) của viên chức Lâu đài, cả gia đình cô gái đã phải trả giá quá đắt. Ông bố mất việc, bà mẹ bệnh tật, một đứa em trai không thể xác định được chính xác công việc của mình, dù anh ta đã từng đi giao một vài bức thư cho Lâu đài… Quyền lực không chỉ thể hiện trong bản thân câu chuyện, nó còn thể hiện qua cái cách mà Olga kể câu chuyện ấy, cô và gia đình cam chịu nó như một điều tất nhiên. Chính thái độ này làm K. càng khó hiểu và càng quyết tâm lý giải cho bằng được bản chất quyền lực của Lâu đài.

Lâu đài – bộ máy quyền lực quan liêu

Được kính trọng đến mức sợ hãi là thế, nhưng cung cách làm việc của bộ máy quyền lực Lâu đài khiến cho người ta chán chường và mệt mỏi. Đó là một thứ bộ máy quyền lực chuyên chế, rối rắm, khổng lồ và đầy những ngóc ngách.

Đến với lâu đài người ta phải qua cả một mê lộ – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Với quyết tâm tìm kiếm, K. vướng vào mê lộ này ngay trong ngày đầu tiên. “Chàng tiếp tục đi về phía trước, nhưng đường còn rất dài. Hóa ra con đường chính của làng lại không dẫn lên ngọn đồi có Lâu đài, mà chỉ dẫn đến gần đó, rồi như cố ý, nó rẽ ngang, không bỏ xa Lâu đài mà cũng không dẫn đến gần. […] nhưng chàng hết sức ngạc nhiên thấy cái làng này mới dài làm sao, đi mãi cũng không hết. Khắp nơi đều có tuyết, nhưng không ở đâu có một bóng người.” Những con đường thoạt nhìn tưởng như dẫn đến Lâu đài, nhưng rồi càng đi lại càng thấy xa, khiến chàng mệt mỏi và mất phương hướng. Hành trình tìm gặp viên chức sắc Klamm chẳng hề khá hơn. K. gặp hàng loạt thư kí, hàng loạt viên chức, hàng loạt cuộc hẹn, thậm chí còn nhận được một bức thư được cho là của Klamm… nhưng rồi tất cả đều là vô nghĩa, và chàng vẫn hoàn toàn là một kẻ không được thừa nhận, hoàn toàn xa lạ với Làng.

Đó là bên ngoài, là đường đến Lâu đài. Còn bên trong, lối làm việc của Lâu đài vô cùng quan liêu và mâu thuẫn. Ngay từ đầu tác phẩm, một đoạn đối thoại giữa K. với kẻ tự xưng là con trai Quan phòng thành cũng đủ cho ta thấy điều đó:

“- Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sống hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài, phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem.

chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi:

– Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à?

– Có chứ! – Gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. – Lâu đài của bá tước West West.

– Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? – K. hỏi như thế muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ.

– Phải có giấy phép, – có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: – Hay là không cần đến giấy phép nhỉ?

– Vậy thì tôi đi xin phép, – K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy.

– Nhưng đi xin ai? – Gã trẻ tuổi hỏi.

– Đến xin ngài bá tước, – K. trả lời, – tôi có thể đi xin ai khác được?

– Đến ngài bá tước để xin phép lúc nửa đêm thế này à? – Gã trẻ tuổi kêu lên và lùi lại một bước.”

Đang đêm, K. bị đánh thức một cách rất bất lịch sự. Gã trẻ tuổi dựng chàng dậy khi chàng vừa chợp mắt; ngay giữa đêm khuya, gã yêu cầu K. đưa ra giấy phép nghỉ đêm với lý do “Làng này là của lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây đều như sống hoặc nghỉ đêm trong lâu đài, phải được phép của bá tước.” Có vẻ đây là một nơi nghiêm khắc về luật lệ đến mức họ sẵn sàng đánh thức một người vào lúc giữa đêm và yêu cầu chàng ta giao ra giấy phép của bá tước. Nhưng khi K. hỏi làm thế nào để gặp bá tước thì người ta xem chàng như thể chàng đang đòi hỏi một điều quá sức tưởng tượng. Những lời gã Schwazer nói với K. rất mâu thuẫn. Gã ta đòi K. đưa ra giấy phép của bá tước rồi lại phủ nhận khả năng có thể xin được giấy phép của bá tước. Khi K. bắt trúng điểm mâu thuẫn ấy “Nếu không được thì tại sao anh đánh thức tôi dậy?”, gã ta liền tận dụng ngay thân phận của mình để khép tội K. dám chống lại người của bá tước, và “yêu cầu anh phải tôn trọng người của bá tước”. Một người phải đòi hỏi sự tôn trọng chỉ khi tự họ không thể khiến mọi người tôn trọng mình! Nếu K. không nói mình là “người đạc điền” thì có lẽ gã ta sẽ ném chàng ra ngoài làng giữa đêm đông ngay lập tức. Thân phận của gã Schwazer kia thật ra cũng chỉ là con trai một người giúp việc cho Quan phòng thành, gã ta chỉ là một kẻ “cáo mượn oai hùm” để chèn ép người khó khăn. Sự lạm quyền của gã đã để lại ấn tượng xấu cho K. về những người làm việc trong Lâu đài.

Càng theo chân K. đi sâu vào khám phá cơ chế “Lâu đài”, độc giả càng nhận ra sự quan liêu khó chấp nhận nổi của cái bộ máy vẫn được những thành viên của nó ca ngợi là tốt đẹp này. Những cuộc triệu tập diễn ra vào lúc nửa đêm và ngay trong phòng ngủ! Một lãnh địa nhỏ với cái văn phòng lớn, đầy những phòng ban, đầy những quý ông cầm quyền, những thư kí, người giúp việc, người hầu, người đưa thư… “trong những vụ việc không đáng kể thỉnh thoảng lại xuất hiện sai lầm nghiêm trọng”. Khi xác nhận thực hư thân phận của K., thái độ làm việc của Lâu đài tỏ ra kém hiệu quả khi phủ nhận thân phận chàng, rồi sau đó phải đính chính lại một cách qua loa tắc trách. Chỉ một vấn đề nhỏ là xác nhận có mời K. đến làm việc ở Lâu đài hay không, Lâu đài có thật sự cần đến người đạc điền hay không, vị trưởng thôn đã phải giải thích dài dòng lê thê và chỉ mê lộ những lời giải thích ấy thôi cũng đủ làm người đối diện mất phương hướng.

Lâu đài và Klamm, tất cả có mà như không, không mà như có. Vướng vào mê lộ những con đường, K. không bao giờ đến được Lâu đài. Thậm chí, quý ông Klamm vừa tồn tại vừa không tồn tại. Trong bức thư được người đưa thư cho là của ông ta thì “chữ ký không thể đọc được”. Mọi dấu vết về nhân vật này đều bị xóa nhòa. Trong công cuộc tìm kiếm, bất chấp nỗ lực của K., mọi thứ đối với chàng đều lơ lửng, vừa trong tầm tay vừa ngoài tầm tay. Hình tượng quý ông Klamm đại diện cho chính quyền “Lâu đài” thuộc về kiểu nhân vật độc tài vô hình – không ai có thể thấy được. Thậm chí, thứ quyền lực này còn đáng sợ hơn cái cách người ta từng tin vào Chúa trời, vì dẫu sao Chúa trời cũng có thể là một nguồn an ủi, còn Lâu đài thì không. Quyền lực Lâu đài chỉ làm người thừa nhận nó phải sợ hãi, và làm vụn nát cuộc sống của những ai không thừa nhận nó, khiến họ trở nên cô độc – như đối với K.

Đó là về những người “của Lâu đài”, những kẻ tồn tại vô hình chẳng ai biết mặt. Còn những nhân vật thật sự có mặt, đại diện cho Lâu đài trong mối liên hệ với dân làng? Vị trưởng thôn hiện ra với một hình ảnh thật thảm hại, ông ta tiếp K. ngay trên giường của mình và mọi công việc đều phải cậy nhờ vào người vợ. Chỉ là một bản thông báo đơn giản, nhưng để tìm được nó thì:

“Người đàn bà mở tủ, K. và trưởng thôn cùng nhìn vào. Cái tủ nhét đầy các loại giấy tờ. Khi người đàn bà mở tủ, hai tập hồ sơ lớn quấn lại thành hai tập giấy khổng lồ được bó thành một bó như người ta bó củi khô, truồi ra làm bà ta hoảng hốt nhảy sang một bên.

– Ở dưới ấy, ở dưới ấy. – Trưởng thôn nói, từ giường ông ta hướng dẫn vợ đang ôm cả bó hồ sơ và ngoan ngoãn lôi tất cả mọi thứ ra khỏi cái tủ để có thể lấy được giấy tờ nằm phía dưới. Số giấy tờ la liệt đó đã phủ kín nửa căn phòng.”

Đằng sau lời kể thản nhiên, thấp thoáng một nụ cười châm biếm, nhưng kết đọng lại vẫn là tiếng thở dài chua chát. Căn phòng của vị trưởng thôn bệnh tật vốn đã ngột ngạt, thế mà giấy tờ của lâu đài còn phủ kín đến cả nửa căn phòng (!). Quyền lực hiện hình trong chính mớ giấy tờ đó, đè nghẹt không gian sống của con người. Cuộc sống riêng của K. từ khi bước chân vào làng và phải đặt mình dưới quyền Lâu đài cũng chẳng khá hơn. Ngòi bút lạnh lùng Kafka thản nhiên ghi lại một nhận xét hài hước nhưng đầy mỉa mai: “K. chưa từng thấy ở đâu mà bộ máy hành chính và cuộc sống lại lẫn lộn với nhau như ở đây, đến mức dường như bộ máy hành chính và cuộc sống đã đổi chỗ cho nhau vậy. Tỉ như cái uy quyền trên danh nghĩa mà cho tới lúc này Klamm đã tỏ ra đối với sự phục vụ của K., có nghĩa gì so với cái uy quyền một cách thực tế mà Klamm đã có được trong phòng ngủ của chàng.” Frida là người yêu của chàng, cô chấp nhận theo chàng rời bỏ quán rượu, nhưng cô vẫn mang theo ám ảnh về “tước hiệu” “người tình của Klamm”. Đến cả những sinh hoạt riêng tư nhất cũng không tránh khỏi sự soi mói của hai người “phụ tá” (Gọi là phụ tá mà chẳng giúp được gì, vì thật ra K. có được làm công việc của mình đâu?) Bằng danh nghĩa phụ tá, họ lẽo đẽo theo chàng như những cái bóng lỳ lợm, dưới sự sai khiến của Lâu đài…

Lâu đài trong tác phẩm là biểu tượng của một hệ thống quyền lực độc tài, chuyên chế, cũ kỹ. Đi ngược quá trình tiến lên của lịch sử nhưng nó vẫn cứ tồn tại, đè nghẹt cuộc sống con người. Nỗi cô đơn của K. là nỗi cô đơn không tránh khỏi của những người bị lưu đày trong mê lộ quyền lực ấy. Họ mất cội nguồn, mất điểm tựa và mất cả phương hướng; họ không kịp hồi tưởng quá khứ hay nghĩ cho tương lai – chỉ sống ở hiện tại không thôi con người đã đủ rơi vào tấn bi kịch khôn cùng.Tuy nhiên, dù lạc lối trong mê lộ, họ lại có thái độ vừa đáng thương vừa đáng phục: không cam chịu buông xuôi mà dám dò dẫm khám phá, dám đặt quyết tâm tìm lời giải đáp cho thiết chế quyền lực phi lý.

Trong một mối quan hệ như thế, nỗi cô đơn của K. là một thứ bi kịch. Những người dân làng chịu đựng thứ quyền lực phi lý kia nhưng họ không gánh chịu bất cứ bi kịch nào, bởi họ chấp nhận nó một cách hoàn toàn tất nhiên. Trái ngược với dân làng, K. ý thức rõ được cái phi lý trong quyền lực Lâu đài và cội nguồn nỗi cô đơn của mình; nhưng chàng không giải quyết được nó, mọi nỗ lực nhằm tìm hiểu bản chất Lâu đài chỉ càng đẩy chàng ra xa hơn. Đó chính là bi kịch, theo nghĩa rộng của từ ngữ này.

Nỗi cô đơn trong mối quan hệ với Làng

Thế giới được miêu tả trong tác phẩm phân thành hai tầng rõ ràng, tách biệt. Nếu phía trên là Lâu đài với quyền lực vô hình thì phía dưới là Làng. Cũng như Lâu đài, Làng không chấp nhận K., trước hết vì K. không được xác nhận của Lâu đài, và sâu xa hơn, vì K. không giống họ. Lâu đài là cội nguồn của nỗi cô đơn, còn những mối quan hệ nhạt nhòa có cũng như không với dân làng chính là nơi thể hiện rõ nhất nỗi cô đơn ấy của nhân vật K..

Trong khoảng thời gian lưu lại ở làng, K. không phải là không làm quen được một ai. Chàng cũng đã có một vài người quen biết: bà chủ quán trọ, thầy giáo làng, gia đình anh chàng đưa thư Barnabas, và đặc biệt, Frida. Thế nhưng, những quan hệ này không cứu vãn nỗi sự cô độc của chàng. Nó chỉ càng làm rõ thêm thế đứng chông chênh của K. khi Lâu đài – tầng trên và Làng – tầng dưới đều không chấp nhận; chàng kẹt lại giữa hai tầng thế giới đó và mọi nỗ lực thét gào không được ai nghe thấu.

Quan hệ giữa con người được thể hiện trước hết bằng đối thoại. Nhưng, trong tác phẩm, đối thoại gần như độc thoại. Mặc dù đang trò chuyện, lời nói của mỗi người không hề ăn khớp nhau. Con người với con người, ngay trong hình thức giao tiếp sơ khai nhất vẫn cứ là xa cách. Họ không nói thật. Họ nghi ngờ lẫn nhau. Hãy thử đọc lại một cuộc trò chuyện giữa K. với bà chủ quán:

“– Anh chưa học nghề cắt may sao? – Bà chủ quán hỏi.

– Chưa bao giờ, – K. trả lời.

– Anh làm nghề gì?

– Đạc điền.

– Nghề đó là gì?

giải thích, bà chủ quán vừa nghe vừa ngáp.

– Anh không nói thật. Tại sao anh không nói thật?

– Bà cũng không nói thật.”

Những cuộc hội thoại như thế không đưa con người đến được mục đích của mình, thậm chí, không đưa con người đến được gần nhau. Nó chỉ càng tô đậm thêm sự nghi ngờ và xa cách. Lại một lần nữa, tiếng thở dài của con người nhạy cảm Kafka âm vang sau những miêu tả rất khách quan.

Trong những bước đi vô vọng tìm đến Lâu đài, cũng có đôi lúc K. được một ai đó giúp đỡ, nhưng đến cả những khoảnh khắc lóe sáng hiếm hoi kia thật ra cũng không nhằm mục đích tốt đẹp. Những câu trả lời rời rạc của thầy giáo hay sự giúp đỡ của người đánh xe không hề có ý nghĩa thân thiện hay khuyến khích. Người đánh xe giúp đỡ chàng “hoàn toàn không thể hiện sự thiện chí mà hầu như chỉ là sự cố gắng ích kỷ và hoảng hốt nhằm tống khứ K. đi cho khuất mắt”.

Thậm chí, trong mối quan hệ khắng khít nhất với chàng là Frida, nỗi cô độc cũng hiện hữu. Cô yêu chàng, chấp nhận từ bỏ “tước vị” “người tình của Klamm” để đến với chàng, nhưng điều đó không đủ với K. Sau cái say mê đột ngột đầu tiên, tình yêu của họ trở lại nhạt nhòa bởi nó không xuất phát từ cảm thông hay thấu hiểu:

“- Em tin là em hiểu anh, – Frida nói rồi ôm ngang cổ chàng, cô ta còn muốn nói điều gì đó, nhưng không nói được, bởi vì cái ghế ở ngay cạnh giường nên họ lăn xuống giường. Họ nằm trên giường, nhưng không mê mẩn như đêm trước. Frida tìm một cái gì đó, K. cũng thế. Mặt nhăn nhó, miệng rên rỉ, họ chúi đầu vào nhau tìm cái gì đó. Họ ôm nhau, cơ thể họ cứ nẩy lên, nhưng việc đó không làm cho họ quên đi mà ngược lại, chỉ càng làm cho họ nhớ tới nhiệm vụ là phải tìm kiếm. Họ cào cấu thân thể nhau giống như những con chó cào bới mặt đất một cách tuyệt vọng. Rồi thỉnh thoảng họ liếm khắp mặt nhau một cách bất lực, chán chường trong niềm hy vọng cuối cùng của hạnh phúc. Khi đã mệt mỏi, họ nằm im, và nỗi niềm biết ơn đối với nhau trỗi dậy trong họ.”

Trong văn chương, những cảnh làm tình thường được miêu tả hoặc đẹp đẽ hoặc trần trụi, chứ ít có cảnh làm tình nào lại diễn ra kỳ lạ và khó hiểu đến thế. Sự gần gũi chỉ mài sắc thêm ý thức rằng phải tìm kiếm một cái gì đó trong họ; và hẳn là cuộc tìm kiếm này bất thành, nên cuối cùng họ tuyệt vọng và bất lực. Những ngày bắt đầu cuộc sống đôi lứa của K. là như thế, và chẳng trách gì, chẳng ngạc nhiên gì khi cuối cùng Frida chọn cách rời đi, bởi lẽ dù có yêu nhau thì họ không thể chia sẻ cho nhau được những gì họ nghĩ. K. không thể chia sẻ được với Frida cái quá khứ từng là người tình của Klamm, và quan trọng hơn là nỗi kính sợ Lâu đài, điều mà tên phụ tá tưởng chừng như rất gàn dở và vô dụng của chàng lại làm được. Cũng như, ở phía ngược lại, K., chàng không thể làm cho Frida hiểu cái khát vọng tìm đến ngọn nguồn quyền lực của Lâu đài luôn thôi thúc chàng.

Qua cuộc chia tay của K. với cô người yêu Frida, ta nhận ra, trong cuộc sống của dân làng, ý thức bầy đàn là yếu tố tiên quyết. Giống như những người phục vụ Lâu đài có một bộ đồng phục riêng để thể hiện tình trạng thuộc-về-bộ-máy-quyền-lực của mình (đó là lý do khiến Olga hoang mang về chuyện đồng phục cho em trai mình, một nỗi hoang mang tưởng chừng hết sức vô lý), những người dân làng mặc cùng một bộ đồng-phục-tư-tưởng: thái độ chấp nhận quyền lực của Lâu đài. Sự kính sợ Lâu đài được dựng nên bởi tất cả mọi người đều cùng kính sợ. Ngoài K., người mới tới, không ai đặt câu hỏi về quyền lực của Lâu đài, dù đó là kẻ bị đối xử bất công nhất như gia đình Olga – cô chấp nhận sự trừng phạt như thừa nhận một điều tất yếu. K. cô đơn không đơn giản chỉ vì chàng là người khách từ xa đến và ở đêm trong làng mà không có giấy phép, nguyên nhân cốt lõi nhất bởi vì chàng là ngoại lệ trong bầy đàn đó, vì chàng là người duy nhất dám đặt câu hỏi giữa tập thể những kẻ chấp nhận.

Trong tất cả nhũng mối quan hệ của mình, K. là một con người cô đơn, nhưng nỗi cô đơn của chàng có nguồn gốc, có sự vận động và có cả hướng giải quyết. K. bị vướng trong quyền lực lâu đài và trong khát vọng khám phá bản chất quyền lực đó của chính chàng. Giả sử, nếu K. ngay từ đầu chấp nhận rằng lời mời chàng đến làm việc đơn thuần là một nhầm lẫn và quyết định rời làng ngay sau khi trò chuyện với trưởng thôn, mọi sự với chàng có phải sẽ dễ dàng hơn?

Cũng như Lâu đài, Làng là một hình ảnh biểu tượng. Nó tượng trưng cho cộng đồng với đầy đủ những mặt trái của nó, đặc biệt là ý thức bầy đàn quá mạnh mẽ khiến cộng đồng đó sẵn sàng cô lập những ai không cùng hệ ý thức với họ. Trong tác phẩm, sự tồn tại của Làng với những con người cụ thể càng tô đậm thêm nỗi cô đơn không thể thoát ra được của nhân vật K..

Lâu đài Tác giả Franz Kafka pdf

Lâu đài Tác giả Franz Kafka docx

Lâu đài Tác giả Franz Kafka txt

PS: Đám rối trong quá trình rối tung lên tự bản thân chúng cũng thể hiện ý nghĩa nội tại của chúng. Một tác phẩm đa chiều ma trận mà mỗi người đọc tự rút ra một ý nghĩa phù hợp với bản thân họ.