Search

9.11.23

CÂU CHUYỆN VỀ RÙA VÀ CÁ

CÂU CHUYỆN VỀ RÙA VÀ CÁ

Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê bơi lội trong ao đầm quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi dạo trên đất liền.
CÂU CHUYỆN VỀ RÙA VÀ CÁ

 
Cá hỏi: “Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn lâu tôi không gặp?”
Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên trên đất khô. Rùa trả lời.
Đất khô à! Cá lấy làm ngạc nhiên. Chị nói đất khô, vậy đất khô là gì? Đất làm sao khô được?
Tôi chưa bao giờ thấy cái gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết.
Bẩm tánh ôn hòa, Rùa nhỏ nhẹ đáp:
Được, tốt lắm, nếu chị muốn nghĩ như vậy cũng tốt. Không ai ngăn cản chị đâu. Tuy nhiên, chỗ mà tôi đi mấy hôm rày đất khô thật.
Nầy chị rùa, đâu chị nói rõ lại coi.
Đất khô mà chị nói ra làm sao, giống như cái gì? Nó có ẩm ướt không?
Không, đất khô không ẩm ướt.
Đất khô có mát mẻ và êm dịu, dễ chịu không?
Không, đất khô không mát mẻ và êm dịu dễ chịu.
Đất khô trong suốt và ánh sáng rọi xuyên qua được không?
Không, đất khô không trong suốt và ánh sáng không rọi xuyên qua được.
Đất khô có mềm mại và dịu dàng để mình bơi lội trong ấy không?
Không, đất khô không mềm mại dịu dàng, và mình không thể bơi lội trong lòng đất.
Đất có di chuyển và trôi chảy thành dòng không?
Không, đất không di chuyển và trôi chảy thành dòng.
Đất có nổi sóng và tan ra thành bọt không?
Cá rất bực mình với loạt câu trả lời “không, không, …” của rùa.
Không, đất không nổi sóng. Rùa thành thật trả lời.
Cá bỗng nhiên lộ vẻ hân hoan của người đắc thắng và vang lên:
Thấy chưa, thật quả như tôi đã nói chớ gì nữa! Tôi đã bảo rằng đất khô của chị là hư vô, không có gì hết.

Tôi hỏi và chị đã xác nhận rằng đất khô và không ẩm ướt, không mát mẻ, không êm dịu và không trong suốt, và ánh sáng không rọi xuyên qua được, không mềm mại và dễ chịu để mình có thể bơi lội trong ấy, đất cũng không di chuyển và trôi thành dòng, cũng không nổi sóng và cũng không tan rã thành bọt. Không phải gì hết thì có phải là hư vô không?
Rùa đáp:
Được, tốt lắm. Nầy chị cá, nếu chị quả quyết rằng đất là hư vô, không có gì hết, thì chị cứ tiếp tục nghĩ như thế. Thật ra, người nào đã biết nước và đất liền rồi sẽ nói rằng chị chỉ là con cá dại dột, vì chị quả quyết rằng cái gì mà chị không biết là không có gì hết, hư vô.
Nói là hư vô bởi vì chị không bao giờ biết.
Đến đây, rùa bỏ cá ở lại một mình với ao đầm nhỏ bé, quay đầu lội đi và suy tưởng đến một cuộc viễn du khác trên đất khô, nơi mà cá tưởng tượng là hư vô…“
Nguồn sách: Đức Phật và Phật pháp- Đại Đức Narada Maha Thera.
Nguồn ảnh: thientinhtam.wordpress.com
Ghi chú: 127 


Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

Người Khuyết Tật, The Dwarf Tác Giả Pär Lagerkvis

Người Khuyết Tật, The Dwarf Tác Giả Pär Lagerkvis


Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB 
Tên sách:Người khuyết tật (Dvọrgen) Tác giả: Pär Lagerkvist 
Nguyên tác: Dvärgen Dịch giả: Nguyễn Thái Hà  Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn Năm xuất bản: 2001 
Số trang: 456 Khổ sách: 13 x 19 cm 
Đánh máy: Minh Khuê, Lan Anh, Bảo Khanh, Trần Thị Thùy Linh, Thanh Thảo, Nguyễn Thị Thương, Quan Trường, Khánh Dư, Duyên, Cường Soát lỗi: Duyên, Đức Nguyễn Chế bản ebook: Hồng Sơn Ngày thực hiện: 29/09/2012 
Making Ebook Project #276 - www. BookaholicClub. com

Người Khuyết Tật, The Dwarf Tác Giả Pär Lagerkvis



Bạn đang đọc ebook NGƯỜI KHUYẾT TẬT của tác giả Pär Lagerkvist do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. 
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. 

CUỐN SÁCH ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG KHUÔN KHỔ QUỸ GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM – THỤY ĐIỂN DO SIDA TÀI TRỢ PÄR LAGERKVIST 


Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Thụy Điển Pär Lagerkvist là con một công nhân đường sắt, học ngữ văn và lịch sử nghệ thuật, yêu thích văn chương và có định hướng trở thành nhà văn ngay từ thời niên thiếu, năm 1912 bắt đầu in thơ và truyện, viết báo và phê bình sân khấu. 

Do ảnh hưởng Thế chiến I nên các sáng tác thời kì đầu của P. Lagerkvist phản ánh tâm trạng lo âu, hoang mang, cô đơn và bất lực của con người trong thời kì đế quốc chủ nghĩa (Nỗi buồn, 1916). Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Người khách của thực tế mang quan điểm nhân đạo, có tính chiến đấu, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật rất cao. Năm 1940, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. 

The Dwarf là một tiểu thuyết năm 1944 của Pär Lagerkvist. Nó được coi là cuốn tiểu thuyết sáng tạo và quan trọng nhất về mặt nghệ thuật của ông. Nó được dịch sang tiếng Anh bởi Alexandra Dick vào năm 1945 

Người Khuyết Tật, The Dwarf Tác Giả Pär Lagerkvis PDF


https://drive.google.com/file/d/1m5PM27z_juQZzSlWSpELzslO1hm7kj69/view?usp=sharing


Người Khuyết Tật, The Dwarf Tác Giả Pär Lagerkvis DOCX


https://docs.google.com/document/d/1sfI3VS9paSX96qlZHN-pjSEyAdgneyTb/edit?usp=sharing&ouid=104167641700529659665&rtpof=true&sd=true



Bản Full 2 truyện Nguoi-Khuyet-Tat-Barabbas-Par-Lagerkvist


7.11.23

Về quả vị DỰ LƯU Tuyển tập các bài viết Bình Anson biên soạn (2020)

Về quả vị DỰ LƯU Tuyển tập các bài viết Bình Anson biên soạn (2020):Trong kinh điển thường đề cập đến bốn quả vị mà người con Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đến Niết-bàn. 


Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc – hoặc các chặng đường – trên hành trình thanh lọc tâm ý, tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, thường được gọi là mười kết sử hay thằng thúc (samyojana), trói buộc chúng sinh vào vòng luân hồi. Bốn quả vị đó là:

- Dự lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn), 
- Nhất lai (Sakadāgāmi, Tư-đà-hàm), 
- Bất lai (Anāgāmi, A-na-hàm), 
- A-la-hán (Arahant, Ứng cúng).
Mười kết sử là:

- thân kiến (sakkāya-diṭṭhi), 
- hoài nghi (vicikicchā), 
- giới lễ nghi thủ (sīlabbata-parāmāsa) 
- dục ái (kāmacchanda) 
- sân hận (vyāpāda), 
- sắc ái (rūparāga), 
- vô sắc ái (arūparāga), 
- mạn (māna), 
- trạo cử (uddhacca), 
- si vi tế (avijjā).
Trong nhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quả thánh đó như sau:

– “Có những tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí. Có những tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ năm hạ phần kết sử, được hóa sanh, ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa. Có những tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sinh vào đời này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Có những tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kết sử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ.” (MN 118) 

Về quả vị DỰ LƯU Tuyển tập các bài viết Bình Anson biên soạn (2020)


Người đạt quả Dự lưu là người đã đoạn trừ ba kết sử đầu tiên:


thân kiến, hoài nghi, và giới lễ nghi thủ. Người nầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giải thoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp, vì vậy có sách gọi là quả Thất lai hay Thất sinh. Người nầy còn được gọi là đã mở “Pháp nhãn”, vì người ấy đã bắt đầu có thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như là một bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắc và tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nào về sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo:
không còn hoài nghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghi về con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giác ngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đã đi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoát tối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng Niết-bàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thức lễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó. 
Thân kiến (sakkāya-diṭṭhi), kết sử đầu tiên, là sự hiểu sai lạc về cái gọi là Tự ngã, hay cái Tôi, đồng hóa nó với một trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Trong bài kinh số 44, thuộc Trung bộ (MN 44), Ni sư Dhammadina giảng rằng một người đã đoạn trừ thân kiến là một người “không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc”, tương tự như thế đối với bốn uẩn còn lại. 
Có người thường hiểu lầm về chữ “hoài nghi” dùng ở đây. Tiếng Pāli là “vicikicchā”, thường dùng để chỉ thái độ nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng và về lý Duyên sinh. Ngài Phật Âm (Buddhaghosa), trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, nói rằng vicikicchā còn là một thái độ do dự, không nhất quyết, không sẵn sàng tra vấn, học hỏi. Do đó cần phải đoạn trừ kết sử nầy. Ðức Phật khuyến khích chúng ta phải biết nỗ lực suy tư, luận giải và chứng nghiệm ngay trong đời sống hằng ngày, vì Pháp là “mời mọi người đến xem xét” (ehipassiko).

Ðể rồi chúng ta thấy, biết rõ ràng sự ích lợi của Phật Pháp cho con đường hành trì của ta, và từ đó, có một niềm tin vững chắc vào Tam Bảo, không còn thắc mắc, phân vân, hay do dự gì nữa. Từ “giới lễ nghi thủ" (sīlabbata-parāmāsa) cũng thường bị hiểu lầm. Thông thường được dịch là “giới cấm thủ”. Ở đây để chỉ thái độ mê tín mù quáng, bám thủ vào các hình thức lễ nghi, tin rằng làm như thế là đủ để thanh lọc tâm. Đoạn trừ giới lễ nghi thủ không có nghĩa là một thái độ buông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh. 

Trái lại, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giới luật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyện tâm, nhưng lại không mù quáng, không quá lệ thuộc vào các hình thức giáo điều. Một người không còn giới lễ nghi thủ là một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, nhưng sống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn xem đó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình. Để trừ khử các kết sử trên, Đức Phật khuyên chúng ta phải nỗ lực thực hành bốn điều:
(1) thân cận bậc chân nhân, (2) lắng nghe diệu pháp, (3) như lý tác ý, và (4) thực hành pháp và tùy pháp, như đã ghi trong Tương ưng (SN 55:11):

“Thân cận bậc chân nhân là Dự lưu phần. Nghe diệu pháp là Dự lưu phần. Như lý tác ý là Dự lưu phần. Thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.” Rồi Ngài giảng về sự liên quan của bốn pháp trên:

- “Này các tỳ-khưu, giao thiệp với bậc chân nhân được viên mãn thì làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp được viên mãn thì làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn thì làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viên mãn thì làm viên mãn niệm và tỉnh giác; niệm và tỉnh giác được viên mãn thì làm viên mãn các căn được chế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn thì làm viên mãn ba thiện hành; ba thiện hành được viên mãn thì làm viên mãn bốn niệm xứ; bốn niệm xứ được viên mãn thì làm viên mãn bảy giác chi; bảy giác chi được viên mãn thì làm viên mãn minh giải thoát” (AN 10:61).
Về thân cận bậc chân nhân, Ngài giảng:

- “Thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. 
Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Đây gọi là làm bạn với thiện” (AN 8:54).
Rồi Ngài khuyên:
“Nếu thấy bậc hiền trí, Chỉ lỗi và khiển trách, Như chỉ chỗ chôn vàng, Hãy thân cận người trí. Thân cận người như vậy, Chỉ tốt hơn, không xấu.” (Dhp 76) “Chớ thân với bạn ác, Chớ thân kẻ tiểu nhân. Hãy thân người bạn lành, Hãy thân bậc thượng nhân.” (Dhp 78) Đức Phật đề cập đến năm lợi ích của việc biết nghe diệu pháp:
(1) được nghe điều chưa nghe, 
(2) làm cho trong sạch điều được nghe, 
(3) đoạn trừ nghi, 
(4) làm cho tri kiến chánh trực, và 
(5) làm cho tâm tịnh tín (AN 5:202).

Trong kinh “Tất cả các lậu hoặc” (MN 2), Đức Phật dạy về pháp như lý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩ của mình sao cho có lợi lạc trên đường tu tập, như sau:


– “Này các tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sinh không sinh khởi, hay dục lậu đã sinh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sinh không sinh khởi, hay hữu lậu đã sinh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sinh không sinh khởi, hay vô minh lậu đã sinh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh không sinh khởi và các lậu hoặc đã sinh được trừ diệt. 
Vị ấy như lý tác ý:
Ðây là khổ; như lý tác ý:
Ðây là khổ tập; như lý tác ý:
Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðây là con đường đưa đến khổ diệt. 

Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kết sử được trừ diệt:
thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là pháp dùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc.” Khi Tỳ-khưu Kotthika hỏi ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất cần phải như lý tác ý thế nào để được giải thoát, ngài đáp:
– “Này hiền giả Kotthika, tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã. Năm thủ uẩn đó là gì? 
Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này hiền giả Kotthika, vị tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã” (SN 22:
122).
Về thực hành pháp và tùy pháp, ở đây được giảng rộng ra, bao gồm niệm và tỉnh giác, phòng hộ các căn, huân tập ba thiện hành (thân, khẩu, ý), thực hành bốn niệm xứ (thân, thọ, tâm pháp), và phát triển bảy giác chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả).
Trong nhiều bài kinh (Tương ưng, phẩm Dự lưu), Đức Phật thường đề cập đến bốn đặc tính của một vị thánh Dự lưu là:
niềm tín thành bất động nơi Đức Phật, nơi Giáo Pháp của Ngài, nơi đoàn thể các vị Thánh Tăng và có giới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chân nhân khen ngợi. Trong Tăng chi (AN 10:92), Ngài giảng:
– “Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? 
Ở đây, này gia chủ, 
vị thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với Đức Phật:
Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. 

Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với Pháp:
Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu. 

Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với chúng Tăng:
Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chân chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Vị ấy thành tựu với những giới đức được các bậc thánh ái kính, không bị phá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, không bị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến định tâm.” Mặc dù đoạn kinh trên thường được xem là các tiêu chuẩn căn bản của quả Dự lưu, trong kinh điển còn có ghi các danh sách khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới hạnh được thay thế bằng tiêu chuẩn bố thí và trí tuệ:
(i) Bài kinh trong Tương ưng SN 55:32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau:
“Lại nữa, vị thánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí.” (ii) Bài kinh trong Tương ưng SN 55:33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau:
“Lại nữa, vị thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sinh diệt các pháp, trí tuệ các bậc thánh thể nhập các pháp, đưa đến chân chánh đoạn tận khổ đau.” Khi các danh sách liệt kê này được kết hợp lại, chúng ta có được bốn đức tính của vị thánh Dự lưu:
(1) đầy đủ lòng tin, 
(2) đầy đủ giới đức, 
(3) đầy đủ bố thí, và 
(4) đầy đủ trí tuệ. Đó cũng là bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho một cư sĩ Phật tử:
– “Có bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ” (AN 8:54).
Ở đây, lòng tin nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) không phải chỉ đơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín mù quáng. Vị Dự lưu thật sự tín nhiệm, tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả – nguyên lý của hành động và hậu quả – vì vị ấy đã chứng nghiệm rõ ràng khi bắt đầu nhập dòng thánh. * 
Trong giai đoạn tu tập kế tiếp, khi dục ái (tham đắm vào dục giới) và sân hận được giảm thiểu một cách đáng kể thì người đó đắc quả Nhất lai, nghĩa là có thể còn tái sinh làm người hoặc trong cõi trời dục giới một lần nữa. 

Khi hai kết sử dục ái và sân được loại bỏ hoàn toàn, thì người ấy đắc quả Bất lai, nghĩa là không còn tái sinh vào cõi dục giới nầy nữa. Năm kết sử đầu tiên nầy gọi là hạ phần kết sử (orambhāgiya-samyojana), cột trói chúng sinh trong cõi dục. Tùy theo trình độ chứng đạt, bậc thánh Bất lai sẽ thác sinh về Tịnh cư thiên thuộc cõi trời sắc giới (rūpa-loka), trước khi nhập Niết-bàn tối hậu. Ba quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai cũng thường được gọi chung là quả vị của bậc thánh Hữu học. Người ấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý, và tinh tấn trừ khử năm kết sử còn lại:
tham đắm vào cõi sắc (sắc ái), tham đắm vào cõi vô sắc (vô sắc ái), trạo cử vi tế, mạn, và si vi tế. Năm kết sử nầy gọi là thượng phần kết sử (uddhambhāgiya-samyojana), cột trói chúng sinh trong cõi sắc và vô sắc. Ở đây, tham đắm vào cõi sắc và cõi vô sắc là sự tham đắm vào bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa-jhāna) và bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa-jhāna).
Trạo cử vi tế (uddhacca) là trạng thái vẫn còn một vài giao động nhỏ trước trần cảnh, mạn (māna) là các ý tưởng so sánh, và si vi tế (avijjā) là một vài dấu vết vô minh ngăn che còn sót lại. * 
Ðến lúc đó, người ấy đã phá tung tất cả mười sợi dây trói buộc, trừ khử mười loại kết sử ô nhiễm, lậu hoặc đã đoạn tận, tuệ giác khai mở, không còn tạo nghiệp, không còn phải tái sinh, luân hồi nữa. Nói một cách khác, như đã mô tả trong Trung bộ, bài kinh số 1 (kinh “Pháp môn căn bản”, MN 1), đối với người ấy:
“Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kết sử, đạt chánh trí giải thoát.” Người ấy trở thành bậc Ala-hán, bậc thánh Vô học, đắc đạo quả Niết-bàn, giải thoát rốt ráo tối hậu. 


Về quả vị DỰ LƯU Tuyển tập các bài viết Bình Anson biên soạn (2020) PDF


https://drive.google.com/file/d/1ZVZL-kO9p7M1iNTtGhmbV1A-JFCj1loF/view?usp=sharing




Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

6.11.23

Phân Loại Các Chủ Đề Trong Kinh Nikaya

Phân Loại Các Chủ Đề Trong Kinh Nikaya - Người Thực Hiện: Chơn Tín Toàn

Phân Loại Chủ Đề Trong Kinh Nikaya - Người Thực Hiện: Chơn Tín Toàn



001. Ác kiến

002. Ác Ma

003. Ác Pháp

004. Ác tỷ kheo

005. Ái

006. A-la-hán

007. Anathapindika

008. A-tu-la

009. Ba mươi bảy bồ đề phần

010. Bậc A-La-Hán

011. Bậc Bất Lai

012. Bậc chân nhân.

013. Bậc Chánh Đẳng Giác
014. Bậc Dự Lưu
015. Bậc Hữu Học
016. Bậc Nhất Lai
017. Bậc Tam Minh
018. Bậc Thân Chứng
019. Bậc Thanh Văn
020. Bậc Thượng Lưu Sắc Cứu Cánh Thiên
021. Bậc Tuệ Giải Thoát
022. Bậc Vô Học
023. Bà-La-Môn
024. Bạn
025. Bản Ngã
026. Bát Chánh Đạo
027. Bát Chánh Đạo 1 - Chánh Kiến
028. Bát Chánh Đạo 2 - Chánh Tư Duy
029. Bát Chánh Đạo 3 - Chánh Ngữ
030. Bát Chánh đạo 4 – Chánh Nghiệp
031. Bát Chánh đạo 5 – Chánh Mạng
032. Bát Chánh đạo 6 – Chánh Tinh Tấn
033. Bát Chánh đạo 7 – Chánh Niệm
034. Bát Chánh đạo 8 – Chánh Định
035. Bắt Đầu
036. Bất Động
037. Bất Lai
038. Bất Thiện Pháp
039. Bất Tử
040. Bảy Đức Phật
041. Bảy Giác Chi
042. Bệnh
043. Bệnh Tâm – Thuốc
044. Biến Tịnh Thiên
045. Biết Đủ
046. Bố Thí
047. Bốn Chánh Cần
048. Bốn Đại
049. Bốn Đại Thiên Vương
050. Bốn Loại Đồ Ăn
051. Bốn Nhiếp Pháp
052. Bốn Như Ý Túc
053. Bốn Niệm Xứ
054. Bốn Niệm Xứ 1 – Niệm Thân
055. Bốn Niệm Xứ 2 – Niệm Thọ
056. Bốn Niệm Xứ 3 – Niệm Tâm
057. Bốn Niệm Xứ 4 – Niệm Pháp
058. Bốn Thánh Đế
059. Bốn Thánh Đế 1 – Khổ
060. Bốn Thánh Đế 2 – Tập
061. Bốn Thánh Đế 4 – Đạo
062. Bốn Thánh Quả
063. Bốn Thánh Quả 1 – Bậc Dự Lưu
064. Bốn Thánh Quả 2 – Bậc Nhất Lai
065. Bốn Thánh Quả 3 – Bậc Bất Lai
066. Bốn Thánh Quả 4 – Bậc A-La-Hán
067. Bốn Thiền
068. Bốn Thiên Vương
069. Bốn Thức Ăn
070. Bốn Vật Dụng
071. Bốn Vô Lượng Tâm
072. Bốn Vô Ngại Giải
073. Bồ Tát
074. Càn Thát Bà
075. Cầu Xin
076. Cha Mẹ
077. Chân Nhân
078. Chánh Đẳng Giác
079. Chánh Định
080. Chánh Giải Thoát
081. Chánh Kiến
082. Chánh Mạng
083. Chánh Nghiệp
084. Chánh Ngữ
085. Chánh Niệm
086. Chánh Pháp
087. Chánh Tín
088. Chánh Tinh Tấn
089. Chánh Trí
090. Chánh Tư Duy
091. Chết

092. Chỉ và Quán
093. Chín Thiền
094. Chọn Thầy Chọn Bạn
095. Chú Tâm Cảnh Giác
096. Chư Thiên
097. Chúng Sanh
098. Chuyển Luân Vương
099. Chuyển Pháp Luân
100. Cõi Trời Biến Tịnh Thiên
101. Cõi Trời Dạ Ma Thiên
102. Cõi Trời Đâu Suất Thiên
103. Cõi Trời Đế Thích
104. Cõi Trời Hóa Lạc Thiên
105. Cõi Trời Không Vô Biên Xứ Thiên
106. Phạm Thiên
107. Cõi Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên
108. Cõi Trời Quang Âm Thiên
109. Cõi Trời Quảng Quả Thiên
110. Cõi Trời Tam Thập Tam Thiên
111. Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại Thiên
112. Cõi Trời Thức Vô Biên Xứ Thiên
113. Cõi Trời Tịnh Cư Thiên
114. Cõi Trời Tứ Đại Thiên Vương
115. Cõi Trời Vô Phiền Thiên
116. Cõi Trời Vô Sắc Giới
117. Cõi Trời Vô Sở Hữu Xứ Thiên
118. Cõi Trời Vô Tưởng Thiên
119. Con Đường Của Các Vị Chánh Đẳng Giác
120. Con Đường Độc Nhất
121. Con Đường Lên Chư Thiên
122. Con Đường Trung Đạo
123. Con Đường Tu Tập
124. Con Mắt
125. Con Người
126. Cư Sĩ
127. Cúng Dường
128. Dạ Ma Thiên
129. Đản Sanh
130. Đáng Được Cung Kính
131. Danh Lợi
132. Danh Sắc
133. Đạo Đế
134. Đất Nước Gió Lửa
135. Đâu Suất Thiên
136. Dạ Xoa
137. Đệ Nhất
138. Đệ Nhất Nam Cư Sĩ
139. Đệ Nhất Nữ Cư Sĩ
140. Đế Thích Thiên Chủ
141. Địa Ngục
142. Địa Thủy Hỏa Phong
143. Điểm Khác Biệt Giữa Phàm Phu Và Thánh Đệ Tử
144. Diệt Đế
145. Diệt Thọ Tưởng Định
146. Định
147. Định Nghĩa
148. Đồ Ăn
149. Đọa Xứ
150. Đối Trị Tâm Bệnh

151. Dòng Chảy Của Các Pháp
152. Dự Lưu
153. Dục
154. Già Chết
155. Gia Đình
156. Giác Chi
157. Giải Thoát
158. Giới Cấm Thủ
159. Giới Định Tuệ
160. Giới Hạnh
161. Giới Luật
162. Giới Tánh
163. Giới Vực
164. Gương Tu Tập
165. Hành
166. Hãy Tu Tập Như Vậy
167. Hộ Niệm Người Sắp Mất
168. Hộ Pháp
169. Hộ Trì Căn
170. Hóa Lạc Thiên
171. Hoàn Tục
172. Hội Chúng
173. Hôn Trầm Thụy Miên
174. Hữu
175. Hữu Dư Y Niết Bàn
176. Hữu Học
177. Hữu Tình
178. Hữu Vi
179. Hỷ
180. Kham Nhẫn
181. Khẩu Nghiệp
182. Khổ
183. Khó Có Khó Tìm Khó Tu
184. Khổ Diệt
185. Khổ Hạnh
186. Khổ Tập
187. Không Công Nhận Là Người Tu
188. Không Phóng Dật
189. Không Vô Biên Xứ
190. Không Xảy Ra
191. Kiến Thủ
192. Kiết Sử
193. Kiêu Mạn
194. Lạc
195. Lậu Hoặc
196. Lợi Danh
197. Lòng Tin
198. Lửa
199. Luân Hồi
200. Lực
201. Lục Thông
202. Lý Duyên Khởi
203. Lý Duyên Khởi 01 – Vô Minh
204. Lý Duyên Khởi 02 – Hành
205. Lý Duyên Khởi 03 – Thức
206. Lý Duyên Khởi 04 – Danh Sắc
207. Lý Duyên Khởi 05 – Sáu Nhập
208. Lý Duyên Khởi 06 – Xúc
209. Lý Duyên Khởi 07 – Thọ
210. Lý Duyên Khởi 08 – Ái
211. Lý Duyên Khởi 09 – Thủ
212. Lý Duyên Khởi 10 – Hữu
213. Lý Duyên Khởi 11 – Sanh
214. Lý Duyên Khởi 12 – Già Chết
215. Maha Cunda
216. Maha Kaccana
217. Maha Kappina
218. Maha Kotthita
219. Maha Moggallana
220. Mahanama
221. Mạt Pháp
222. Mê Tín
223. Minh Và Giải Thoát
224. Minh Và Vô Minh
225. Mục Đích Đạo Phật
226. Mũi Tên Sầu Muộn
227. Mười Chánh Đạo
228. Mười Hai Duyên
229. Mười Một Cửa Bất Tử
230. Mười Nghiệp
231. Mười Như Lai Lực
232. Mười Sáu Hơi Thở
233. Năm Căn
234. Nam Cư Sĩ
235. Năm Dục Trưởng Dưỡng
236. Năm Lực
237. Nam Nữ
238. Năm Tinh Cần Chi Phần
239. Năm Triền Cái
240. Năm Uẩn
241. Năm Uẩn 1 – Sắc
242. Năm Uẩn 2 – Thọ
243. Năm Uẩn 3 – Tưởng
244. Năm Uẩn 4 – Hành
245. Năm Uẩn 5 – Thức
246. Nên Hay Không Nên
247. Nếu Muốn Tuyên Bố Về Dự Lưu Quả
248. Ngã Luận Thủ
249. Ngã Mạn
250. Ngạ Quỷ
251. Ngày Trai Giới
252. Nghe Pháp
253. Nghi Ngờ
254. Nghiệp
255. Ngoại Đạo
256. Ngũ Căn
257. Ngựa
258. Người
259. Người Chỉ Đường
260. Người Đáng Cung Kính
261. Người Đầy Đủ Tri Kiến Không Thể
262. Người Ngu Người Trí
263. Người Tu
264. Người Tu Trong Tương Lai
265. Nguy Hiểm
266. Nguyên Nhân Chánh Pháp Biến Mất
267. Nhân Quả
268. Nhập Được Pháp Lưu
269. Nhập Thai
270. Nhập Vào Bất Động
271. Nhập Vào Bất Tử
272. Nhập Vào Dòng Thánh
273. Nhất Lai
274. Nhị Thiền
275. Nhìn Lại Mình
276. Như Lai
277. Như Lai Có Tồn Tại Không
278. Như Lai Lực
279. Như Lý Tác Ý
280. Niệm
281. Niệm Hơi Thở
282. Niết Bàn
283. Nói Chuyện
284. Nữ Cư Sĩ
285. Nữ Nhân
286. Phạm Hạnh
287. Phạm Thiên
288. Phạm Thiên Sahampati
289. Phạm Thiên Sanamkamara
290. Phản Quan Tự Kỷ
291. Pháp
292. Phật
293. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
294. Phóng Dật
295. Phước
296. Quán
297. Quang Âm Thiên
298. Quảng Quả Thiên
299. Ruộng Phước Vô Thượng Ở Đời
300. Sắc

301. Sắc Cứu Cánh Thiên
302. Sakka Thiên Chủ
303. Sa Môn
304. Sân
305. Sanh
306. Sanh Già Chết
307. Sắp Lâm Chung
308. Sau Khi Thế Tôn Nhập Diệt
309. Sáu Nhập
310. Sáu Xứ
311. Si
312. Sợ Hãi
313. Sơ Thiền
314. Sự Khác Biệt Giữa Phàm Phu Và Thánh Đệ Tử
315. Sự Kiện Không Xảy Ra
316. Sức Mạnh Của Bậc Thầy Hữu Học
317. Sức Mạnh Của Như Lai
318. Tà Đạo
319. Tà Kiến
320. Tà Tín
321. Tác Ý
322. Tài Sản
323. Tái Sanh
324. Tâm
325. Tam Bảo
326. Tám Giải Giải Thoát
327. Tam Minh
328. Tàm Quý
329. Tám Thắng Xứ
330. Tam Thập Tam Thiên
331. Tam Thiền
332. Tầm Tứ
333. Tập Đế
334. Tha Hóa Tự Tại Thiên
335. Tham Sân Si
336. Thân
337. Thần Chú
338. Thân Chứng
339. Thân Khẩu Ý
340. Thân Kiến

341. Thần Thông
342. Thánh
343. Thanh Văn
344. Thế Giới
345. Thế Tôn
346. Thí
347. Thiền
348. Thiên Chủ Sakka
349. Thiện Hiện Thiên
350. Thiện Kiến Thiên
351. Thiên Nhãn Minh, Thiên Nhĩ Minh
352. Thiện Và Bất Thiện
353. Thiện Xảo
354. Thiết Thực Hiện Tại
355. Thọ
356. Thọ Mạng
357. Thối Đọa
358. Thủ
359. Thức
360. Thức Vô Biên Xứ
361. Thượng Lưu Sắc Cứu Cánh Thiên
362. Thuyết Pháp
363. Tiến Trình Tu Tập
364. Tiết Độ Ăn Uống
365. Tín
366. Tín Giải Thoát
367. Tín Giới Tàm Quý Văn Thí Tuệ
368. Tín Tàm Quý Tấn Tuệ
369. Tín Tấn Niệm Định Tuệ
370. Tịnh Cư Thiên
371. Tỉnh Giác
372. Tịnh Tín
373. Tội
374. Tôn Giả - Các Tôn Giả Khác
375. Tôn Giả Ananda
376. Tôn Giả Anuruddha
377. Tôn Giả Mahakassapa
378. Tôn Giả Maha Moggallana
379. Tôn Giả Sariputta
380. Tôn Giả Upali
381. Tôn Giả Vangisa
382. Tri Túc
383. Trí Tuệ
384. Triền Cái
385. Trình Tự Tu Tập
386. Trung Đạo
387. Từ Bi Hỷ Xả
388. Tứ Đại
389. Tứ Đại Thiên Vương
390. Tự Lợi Lợi Tha
391. Tự Ngã
392. Tứ Nhiếp Pháp
393. Tứ Như Ý Túc
394. Tu Sĩ
395. Tu Tập
396. Tứ Thiền
397. Tứ Thiên Vương
398. Tứ Thực
399. Tứ Vật Dụng
400. Tứ Vô Lượng Tâm
401. Tứ Vô Ngại Giải
402. Túc Mạng Minh
403. Tuệ

404. Tuệ Giải Thoát
405. Tuệ Lực
406. Tuổi Thọ Chư Thiên
407. Tưởng
408. Tùy Miên
409. Tùy Niệm
410. Tùy Pháp Hành
411. Tùy Quán Sanh Diệt Trong Năm Uẩn
412. Tuyên Bố Chánh Trí
413. Tỷ Kheo
414. Tỷ Kheo Ni
415. Tỷ Kheo Trong Tương Lai
416. Uẩn
417. Văn
418. Vi Diệu
419. Ví Dụ
420. Vợ Chồng
421. Vô Dư Y Niết Bàn
422. Vô Học
423. Vô Minh
424. Vô Ngã
425. Vô Ngại Giải
426. Vô Nhiệt Thiên
427. Vô Phiền Thiên
428. Vô Sắc Giới
429. Vô Sở Hữu Xứ
430. Vô Sở Úy
431. Vô Thỉ
432. Vô Thượng
433. Vô Thượng Sư
434. Vô Thường Tánh
435. Vô Thường Khổ Vô Ngã
436. Vô Tưởng Hữu Tình Thiên
437. Vô Tướng Tâm Định
438. Vô Tướng Tâm Giải Thoát
439. Vô Vi
440. Vua Chuyển Luân Vương
441. Vua Pasenadi
442. Xả
443. Xem Lại Tự Thân
444. Xuất Gia
445. Xuất Ly Giới
446. Xúc
447. Xuyên Tạc Như Lai
448. Ý

>>>> TẢI TOÀN BỘ XUỐNG MÁY ĐỂ XEM



Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều