Phanblogs

Blog cá nhân của Phan

Trang

  • WHOIS
  • EBOOK
  • Sách Hay
  • Bài đọc nhiều
  • Digital Marketing Agency Freelancer Phanblogs (MAFP)

Search

22.7.08

Cha giàu cha nghèo Tác giả Robert Kiyosaki và Sharon Lechter

Tại sao phải dạy con về tài chính? Cha giàu cha nghèo Robert Kiyosaki và Sharon Lechter
Hầu hết mọi người không nhận ra rằng: trong cuộc sống, vấn đề không phải là bạn kiếm được bao nhiêu tiền mà là bạn giữ được bao nhiêu tiền và làm cho nó sinh sôi nảy nở như thế nào.
Điều đó cũng giống như trồng một cái cây vậy. Ban đầu, bạn sẽ phải mất rất nhiều công sức để chăm bón nó, đến một ngày nào đó, khi rễ cây đã đâm sâu vào lòng đất, cái cây đã đủ lớn để tự mình phát triển, bạn sẽ không cần phải tốn công chăm bón nữa mà vẫn có thể được hưởng những mùa quả ngọt lành.

Cha giàu cha nghèo Robert Kiyosaki và Sharon Lechter
Cha giàu cha nghèo Robert Kiyosaki và Sharon Lechter

Muốn cho cái cây tiền bạc của bạn phát triển, bạn phải có nhiều kiến thức về tài chính để biết chăm bón nó thật đúng cách.
Khi bắt đầu học cách làm giàu, tôi và Mike hãy còn là những đứa trẻ nên người cha giàu đã nghĩ ra một cách đơn giản để dạy chúng tôi. Trong nhiều năm, ông đã vẽ nhưng bức vẽ và sử dụng những từ ngữ đơn giản để Mike và tôi hiểu được những biệt ngữ và sự vận động của tiền bạc. Nhiều năm sau đó ông mới bắt đầu thêm vào những con số. Tuy đơn giản nhưng những bức vẽ này đã góp phần hướng dẫn hai đứa trẻ bé nhỏ trong một bài toán số học khổng lồ về tài chính, hình thành một nền tảng sâu sắc và kiên cố ...

Quy luật 1. Bạn phải biết sự khác nhau giữa tài sản (asset) và tiêu sản (liability), và để được giàu có, bạn phải mua tài sản.

Nghe thì có vẻ đơn giản đến buồn cười, nhưng hầu hết lại không biết được nó uyên thâm đến mức nào, vì họ không biết được sự khác nhau giữa một tài sản và một tiêu sản là ở đâu.
"Người giầu kiếm được tài sản. Người nghèo và người trung lưu chỉ thu được tiêu sản, nhưng họ nghĩ rằng họ đã kiếm được tài sản. " Khi người cha giàu giải thích điều này cho Mike và tôi, chúng tôi nghĩ ông đang nói đùa. Chúng tôi đang chờ đợi một bí mật làm giàu, vậy mà ông lại trả lời như thế đấy. Nó đơn giản đến mức chúng tôi phải khựng lại một lúc lâu để suy nghĩ về điều đó.
"Bác muốn nói tất cả những điều chúng con cần biết là : tài sản là gì, sau đó phải đi kiếm nó và rồi chúng con sẽ giàu có sao?" Tôi ngờ vực hỏi.
Người cha giàu gật đầu. "Đơn giản thế thôi."
"Nếu chỉ đơn giản như thế, tại sao những người khác lại không giàu được?" Tôi hỏi lại.
Người cha giàu mỉm cười. "Vì người ta không biết được sự khác nhau giữa tài sản và tiêu sản."
"Tại sao người lớn lại ngớ ngẩn thế nhỉ? Nếu đó chỉ là một điều đơn giản nhưng quan trọng thì tại sao người ta lại không muốn tìm hiểu?"
Người cha giàu phải mất vài phút mới giải thích được cho chúng tôi biết tài sản là gì và tiêu sản là gì.
Là một người lớn, tôi cảm thấy giải thích điều này với những người lớn khác thật khó khăn. Vì sao vậy? Vì người lớn khôn ngoan hơn. Gần như trong mọi trường hợp, hầu hết người lớn không nắm được sự đơn giản của một ý tưởng vì họ đựơc giáo dục khác nhau. Và một người lớn thông minh thường cảm thấy bị hạ thấp khi phải chú ý đến những khái niệm quá đơn giản.
Người cha giàu tin vào quy luật KISS - "Giữ Cho Đơn Giản" (Keep It Simple Stupid) - vì vậy ông cố làm cho mọi thứ trở nên thật đơn giản với hai chúng tôi . . .
Ông nói: "Những điều xác định nên một tài sản không phải là từ ngữ mà là những con số. Và nếu các con không biết đọc số thì các con không thể xác định được một tài sản trong mớ bòng bong ấy đâu."
Trong kế toán, vấn đề không phải ở bản thân những con số mà là những con số ấy nói lên điều gì. Cũng như từ ngữ vậy, vấn đề không phải ở bản thân từ ngữ mà là câu chuyện những từ ngữ ấy kể.
"Nếu con muốn trở lên giàu có, con phải đọc được và hiểu được những con số." Người cha giàu lặp đi lặp lại câu nói ấy cả ngàn lần với chúng tôi: "Người giàu kiếm được tài sản. Người nghèo và người trung lưu chỉ kiếm được tiêu sản."
Mô hình vòng quay của 1 tài sản
Hình hộp ở trên là Bản kê lợi tức, hay còn gọi là Bản kê lời lỗ. Nó đo các khoản thu nhập và chi phí, tiền vào và tiền ra. Cái hộp bên dưới là Bản cân đối thu chi. Nó được gọi như vậy vì nó đòi hỏi phải có sự cân đối giữa tài sản và tiêu sản. Lý do chính gây ra cuộc vật lộn tài chính đơn giản là vì người ta không biết được sự khác nhau giữa một tài sản và một tiêu sản. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn chính là vì định nghĩa của hai từ này. Càng cố tra từ điển, bạn sẽ chỉ càng nhầm lẫn nhiều hơn thôi.
Người cha giàu đã nói với hai chúng tôi một cách đơn giản rằng: "Tài sản bỏ tiền vào túi các con, còn tiêu sản thì lôi tiền ra khỏi túi."
Nếu bạn muốn trở lên giàu có, hãy mua tài sản. Nếu muốn trở lên nghèo đi, hãy mua tiêu sản. Chính vì không phân biệt được sự khác nhau này mà rất nhiều người gặp các rắc rối về tài chính.
“Mù chữ” và “mù số” đều là nguyên nhân gây ra những khó khăn tài chính. Nếu người ta gặp khó khăn tài chính nghĩa là đang có một điều gì đó mà họ không hiểu được: hoặc những từ ngữ hoặc những con số. Người giàu phát tài được là nhờ họ “biết đọc biết viết” trong nhiều lĩnh vực khác nhau hơn những người đang phải vật lộn về tài chính. Vì vậy, nếu bạn muốn giàu có và giữ được của cảiI, bạn cần phải hiểu biết về tài chính, cả về từ ngữ lẫn những con số.
Mũi tên trong sơ đồ biểu thị vòng quay của tiền mặt. Chỉ toàn những con số thì thể hiện được rất ít. Chỉ toàn từ ngữ cũng không nói lên được gì nhiều. Đó là câu chuyện về sự tính toán. Khi báo cáo tài chính, việc đọc những con số nghĩa là đang nhìn vào cốt truyện, câu chuyện kể về nơi đến của vòng quay tiền mặt. Trong 80% các gia đình, câu chuyện tài chính kém vui không phảI vì họ không làm ra tiền mà vì họ dùng tiền để mua tiêu sản chứ không mua tài sản.
Ví dụ:
Đây là vòng quay tiền mặt của một người nghèo hay 1 người trẻ tuổi đi làm
Đây là mô hình vòng quay tiền mặt của người trung lưu
Còn đây là vòng quay tiền mặt của người giàu có
Những sơ đồ trên thể hiện vòng quay tiền mặt trong cuộc sống người nghèo, người trung lưu và người giàu. Chính là vòng quay tiền mặt đang kể chuyện, câu chuyện về một người sử dụng tiền bạc của anh ta như thế nào, anh ta làm gì sau khi cầm tiền trong tay ...
Người ta thường nói rằng:"Tôi đang mắc nợ, vì vậy tôi phải đi kiếm tiền."
Nhưng có nhiều tiền thường không giải quyết được vấn đề, thật sự nó chỉ làm cho mọi chuyện trở lên trầm trọng hơn thôi. Tiền làm cho những sai lầm bi thảm của con người trở nên hiển nhiên. Chính vì vậy mà thông thường, khi người ta được hưởng một vận may bất ngờ - ví dụ như được thừa hưởng gia tài, tăng lương hay trúng số - trước sau gì thì họ cũng sẽ trở về với tình trạng tài chính hỗn độn như ban đầu, nếu không muốn nói là tệ hơn lúc đầu nữa. Tiền chỉ làm nổi bật mô hình vòng quay tiền mặt trong đầu bạn. Nếu bạn thường sử dụng hết mọi thứ bạn có thì gần như chắc chắn là việc tăng lương sẽ dẫn đến tăng chi tiêu.

Chúng ta thường kiếm tiền bằng kỹ năng nghề nghiệp của mình và đa số sinh viên rời trường mà không có một kỹ năng tài chính nào, nên dù hàng triệu người có học theo đuổi nghề nghiệp của mình một cách thành công, họ vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn tài chính. Họ làm việc vất vả nhưng không giàu được. Điều thiếu sót trong vốn học của họ không phải là làm thế nào để kiếm tiền, mà là làm thế nào để sử dụng tiền - kiếm được tiền rồi thì cần phải làm gì với chúng. Cái đó gọi là năng lực tài chính - bạn làm gì với tiền bạc sau khi đã kiếm ra chúng, làm sao để giữ không cho người khác chiếm lấy, bạn giữ chúng được bao lâu, tiền bạc sẽ làm việc cho bạn như thế nào?

Hầu hết những khó khăn tài chính người ta gặp phải là do họ không hiểu được vòng quay tiền mặt. Một người có thể được học hành tới nơi tới chốn, thành công trong sự nghiệp nhưng vẫn không hiểu gì về tài chính. Những người này thường phải làm việc nhiều hơn cần thiết vì họ đã học cách làm việc chăm chỉ, nhưng không được học cách buộc tiền bạc phải làm việc cho mình.
Câu chuyện về 1 giấc mơ tài chính trở thành 1 cơn ác mộng tài chính
Cuốn phim về những người làm việc chăm chỉ có sẵn một khuôn mẫu. Sau khi kết hôn những cặp vợ chồng trẻ liền thuê một căn hộ để ở. Vấn đề là căn hộ quá tù túng, nên họ quyết định phải tiết kiệm để mua một ngôi nhà trong mộng và có thể có con. Lúc này họ có hai nguồn thu nhập và họ bắt đầu tập trung vào sự nghiệp của mình. Thu nhập của họ bắt đầu tăng lên.
Chi phí số một của hầu hết mọi người là thuế: thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng khi tiêu xài, mua sắm hàng hoá ... Khi thu nhập tăng, chi phí tăng theo, số tiêu sản cũng sẽ tăng lên.
Có thể chứng minh bằng cách quay lại ví dụ của cặp vợ chồng trẻ. Kết quả của việc thu nhập tăng lên là họ quyết định sẽ đi mua ngôi nhà trong mộng. Khi dã có nhà, họ sẽ phải trả một thứ thuế mới gọi là thuế bất động sản. Sau đó họ mua một chiếc xe mới, đồ đạc mới và những dụng cụ mới để hợp với ngôi nhà mới của mình. Rồi họ bỗng giật mình nhận ra rằng phía cột tiêu sản đầy những món nợ cầm cố và nợ tín dụng.
Lúc này, họ rơi vào cái bẫy Rat Race. Rồi một đứa trẻ ra đời. Họ làm việc nhiều hơn. Nhiều tiền hơn và thuế cao hơn, gọi là đóng thuế theo thu nhập. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại.
Một tấm thẻ tín dụng được gới đến. Họ sử dụng nó. Nó hết hạn. Một công ty cho vay gọi đến bảo rằng "tài sản " lớn nhất của họ, ngôi nhà, được định giá cao. Công ty này đưa ra một món nợ bảo đảm (bill consolidation loan), và bảo rằng tốt hơn hết là thanh toán những món nợ lãi suất cao bằng thẻ tín dụng của họ. Bên cạnh đó, lợi tức nhờ mái nhà của họ chính là sự khấu trừ thuế. Họ làm theo điều đó, và thở dài nhẹ nhõm. Những tấm thẻ tín dụng đã được trả. Bây giờ họ gom những món nợ tiêu thụ lại thành một văn tự cầm nhà. Số tiền phải trả giảm xuống vì họ gia hạn món nợ đến 30 năm cơ mà.
Những người hàng xóm gọi điện rủ họ đi mua sắm, vì đang có đợt bán hàng giảm giá ... Một cơ hội để tiết kiệm chút ít tiền. Họ tự nhủ: "Tôi sẽ không mua gì cả. Tôi chỉ đi xem thôi." Nhưng ngay khi nhìm thấy một vật gì đó, họ lại lấy tấm thẻ tín dụng ra ...
Khi thu nhập tăng lên

Chi phí tăng ...... Số tiêu sản cũng tăng

Tôi thường gặp những cặp vợ chồng như thế. Tên họ thì khác nhau nhưng tình trạng tài chính thì giống nhau cả. Những thói quen tiêu xài đã buộc họ phải kiếm thêm nguồn thu nhập khác.
Họ không biết rằng chính cách tiêu xài tiền của họ, là nguyên nhân chính gây ra những cuộc vật lộn tài chính. Mọi chuyện là do không hiểu biết về tài chính và không phân biệt được sự khác nhau giữa tài sản và tiêu sản.
Người nghèo và người trung lưu rất thường cho phép tiền bạc làm chủ mình. Mỗi buổi sáng họ chỉ đơn giản thức dậy và đi làm mà quên tự hỏi rằng những điều mình đang làm có ý nghĩa hay không. Không am hiểu nhiều về tiền bạc, phần lớn mọi người để cho quyền lực đáng sợ của tiền bạc điều khiển mình.
Người ta thường làm một việc gì đó vì những người khác cũng làm như vậy. Họ thích ứng mà không chịu đặt câu hỏi. Họ lặp lại một cách không suy nghĩ những điều họ nghe được, những ý tưởng theo kiểu "căn nhà là cả một tài sản", "ngôi nhà là sự đầu tư lớn nhất của bạn", "hãy tìm một công việc an toàn", "đừng mạo hiểm"...
Khi mike và tôi 16 tuổi, chúng tôi bắt đầu làm việc cho cha Mike sau giờ học và mỗi cuối tuần. Chúng tôi thường ngồi cùng cha Mike trong khi ông tiếp những nhân viên ngân hàng, luật sư, kế toán viên, người môi giới, nhà đầu tư, nhà quản lý và những người lao động ...
Cha Mike đã không đi theo đám đông. Ông có những suy nghĩ riêng và ông rất ghét câu nói: "Chúng tôi phải làm vậy vì mọi người đều làm vậy." Ông cũng không ưa những từ như "không thể". Nếu bạn muốn ông làm một điều gì đó, chỉ cần nói khích rằng:"Tôi không nghĩ là anh có thể làm được điều đó."
Khi ngồi dự những buổi họp của ông, Mike và tôi học được nhiều thứ... Cha của Mike không được học nhiều ở trường nhưng ông rành về tài chính và cuối cùng đã thành công. Ông thường nói với chúng tôi"Một người thông minh thuê những người còn thông minh hơn anh ta nữa".
Chúng tôi bắt đầu hiểu ra vì sao ngưòi cha giàu bảo chúng tôi rằng: trường học được thiết kế để tạo ra những người lao động tốt chứ không phải những ông chủ giỏi.
Khi tôi 16 tuổi có lẽ tôi đã có một nền tảng tài chính tốt hơn nhiều so với cha mẹ tôi ... Một ngày kia, cha ruột tôi nói rằng ngôi nhà của chúng tôi là sự đầu tư lớn nhất của ông. Và thế là một cuộc tranh luận không lấy gì làm vui vẻ nổ ra khi tôi nói rằng, dồn tiền vào ngôi nhà chúng tôi đang ở không phải là một sự đầu tư tốt.
Những biểu đồ sau minh hoạ sự khác biệt về nhận thức giữa người cha giàu và người cha nghèo trong vấn đề nhà cửa Một người nghĩ rằng ngôi nhà là một tài sản, còn người kia nghĩ rằng nó là một tiêu sản.
Người cha giàu
Người cha nghèo
Tôi nhớ lúc tôi vẽ sơ đồ này cho cha tôi xem và chỉ cho ông hướng đi của vòng quay tiền mặt, những chi phí lệ thuộc khi làm chủ một ngôi nhà. Một ngôi nhà lớn nghia là chi phí lớn, và vòng quay tiền mặt sẽ tiếp tục đi ra ngoài qua cột chi phí.

Tiêu sản

Tôi biết rằng với nhiều người, một ngôi nhà đẹp là sự đầu tư lớn nhất của họ, dù rằng nó không phải là một tài sản mà là một tiêu sản, vì nó làm cho tiền ra khỏi túi nhiều hơn. Tuy nhiên, sẽ có nhiều người không đồng ý với tôi bởi lẽ một ngôi nhà đẹp rất dễ gây xúc cảm. Và khi nói đến chuyện tiền bạc thì những cảm xúc mạnh mẽ sẽ làm mờ đi trí thông minh tài chính.
1. Khi nhắc chuyện nhà cửa, tôi muốn nói rằng: hầu hết mọi người phải làm việc suốt đời để trả tiền cho một ngôi nhà mà họ không bao giờ thực sự được sở hữu. Nói cách khác, sau nhiều năm, hầu hết mọi người đều muốn mua một ngôi nhà mới, mỗi lần mua nhà sẽ dẫn đến một món nợ kéo dài nhiều năm trong khi nợ căn nhà trước còn chưa trả xong.
2. Nhà cửa không phải lúc nào cúng tăng giá. Điều mất mát lớn nhất là bạn để mất đi những cơ hội. Nếu bạn đầu tư toàn bộ tiền bạc cho ngôi nhà, bạn bị buộc phải làm việc vất vả hơn vì tiền bạc sẽ tiếp tục chuyển qua bên cột chi phí thay vì thêm vào cột tài sản, đó chính là khuôn mẫu kinh điển vòng quay tiền mặt của những gia đình trung lưu. Nếu ban đầu một cặp vợ chồng trẻ để dành nhiều tiền vào cột tài sản thì những năm sau này họ sẽ sống dễ dàng hơn, nhất là khi con cái đến tuổi đi học. Tài sản của họ sẽ phát triển lên và có thể giúp họ kiểm soát các chi phí. Thông thường thì có một ngôi nhà cũng giống như gánh một món nợ trị giá nhà phải trả và làm tăng các chi phí của bạn.
Tóm lại, kết quả cuối cùng khi quyết định sở hữu một căn nhà quá đắt tiền thay vì nên bắt đầu một danh mục vốn đầu tư, sẽ tác động mạnh vào một cá nhân theo ít nhất là ba cách:
1. Mất thời gian, trong lúc những tài sản khác có thể sẽ được nâng giá trị lên.
2. Mất một phần vốn, vì số tiền đó có thể được đem đi đầu tư thay vì phải trả các chi phí bảo quản trực tiếp liên quan đến ngôi nhà.
3. Mất cơ hội rèn luyện. Người ta thường coi ngôi nhà, tiền tiết kiệm và kế hoạch lương hưu là tất cả những gì họ có trong cột tài sản. Vì không đầu tư nên họ để mất đi những kinh nghiệm đầu tư và sẽ không bao giờ có thể trở thành "những nhà đầu tư sành điệu".
Tôi không nói bạn đừng mua nhà. Tôi muốn nói, hãy hiểu được sự khác nhau giữa một tài sản và một tiêu sản. Khi muốn có một căn nhà lớn hơn đầu tiên tôi phải mua một số tài sản để có thể phát sinh vòng quay tiền mặt đủ trả cho ngôi nhà ấy đã.
Những bản kê tài chính cá nhân của cha ruột tôi là minh chứng tốt nhất cho cuộc sống của một con người trong vòng Rat Race. Các chi phí của ông dường như luôn đuổi kịp các thu nhập, không hề cho phép ông đầu tư vào một tài sản nào. Kết quả là số tiêu sản của ông, ví dụ như những món cầm cố hay nợ thẻ tín dụng, còn lớn hơn cả số tài sản. Những bức tranh sau còn có giá trị hơn cả ngàn từ ngữ:
Bản kê khai tài chính của cha nghèo
Trái lại, bản kê tài chính cá nhân của người cha giàu lại phản ánh kết quả của một cuộc sống dành cho việc đầu tư và giảm đến mức tối thiểu các tiêu sản.
Bản kê khai tài chính của cha giàu
Xem lại bản kê tài chính của người cha giàu ta sẽ hiểu tại sao người giàu càng ngày càng giàu hơn. Cột tài sản làm phát sinh nhiều thu nhập hơn số cần thiết cho các chi phí, và chúng lại được đem đầu tư lại vào cột tài sản. Cột tài sản sẽ ngày càng phát triển và vì vậy mà số thu nhập sẽ ngày càng nhiều hơn.

Kết quả là người giàu ngày càng giàu hơn.

Lý do khiến người giàu ngày càng giàu hơn
Những người trung lưu luôn gặp phải những khó khăn tài chính không dứt vì thu nhập chính của họ là tiền lương, và khi tiền lương tăng thì thuế cũng tăng. Mà khi lương tăng thì các chi phí của họ cũng có khuynh hướng gia tăng bằng số tiền dư, vì vậy mà xuất hiện cụm từ "Rat Race". Họ xem ngôi nhà như một tài sản lớn nhất trong khi nó thực ra là một loại tiêu sản, thay vì phải đầu tư tiền bạc cho những tài sản thật sự có thể tạo ra thu nhập.
Khuôn mẫu của việc xem ngôi nhà như một sự đầu tư và triết lý cho rằng: lương tăng có nghĩa là bạn có thể mua một ngôi nhà lớn hơn, hay tiêu xài nhiều hơn, chính là nền tảng cho một xã hội đầy nợ nần như ngày nay. Quá trình gia tăng chi phí đẩy nhiều gia đình đến những món nợ ngày càng lớn hơn và tình trạng tài chính không chắc chắn hơn, dù rằng có thể họ đang được thăng tiến trong công việc và được trả lương cao hơn mức bình thường.

Lý do khiến người trung lưu luôn gặp phải khó khăn về tài chính

Bi kịch ở đây là việc thiếu kiến thức tài chính ban đầu đã tạo ra những rủi ro mà giai cấp trung lưu phải đối mặt. Lý do họ muốn được an toàn là vì vị thế tài chính của họ quá mong manh. Bản cân đối thu chi của họ không cân bằng. Chúng chịu gắng nặng quá nhiều tiêu sản mà không có một tài sản thực sự nào làm phát sinh thu nhập cả. Thông thường, nguồn thu nhập duy nhất của họ là tièn lương. Sinh kế của họ phụ thuộc vào các ông chủ.
Vì vậy, khi đến lượt mình được cuộc sống "chia bài", những người này không thể nắm bắt được những cơ hội tốt. Họ muốn được an toàn đơn giản vì họ đang phải làm việc vất vả, trả thuế ở mức cao nhất và gánh hàng đống nợ nần...
Như tôi đã nói ở phần trước, quy luật quan trọng nhất là biết được sự khác nhau giữa tài sản và tiêu sản. Một khi bạn đã hiểu được những khác biệt này, hãy tập trung mọi nỗ lực để mua những tài sản có khả năng phát sinh thu nhập. Đó là cách tốt nhất để bắt đầu con đường làm giàu. Cứ tiếp tục như vậy, cột tài sản của bạn sẽ tăng lên. Cố gắng chiết giảm tiêu sản và chi phí xuống, bạn sẽ có nhiều tiền hơn để đổ vào cột tài sản. Chẳng mấy chốc thì nền tảng tài sản của bạn sẽ vững vàng đến mức bạn có thể nghĩ đến việc đầu tư...
Giới trung lưu gọi việc đầu tư là một hành động "mạo hiểm". Thật ra bản thân việc đầu tư không hề mạo hiểm. Chính sự thiếu thông minh nhanh nhạy về tài chính và thiếu những kiến thức tài chính đơn giản mới là nguyên nhân gây ra sự mạo hiểm.
Nếu bạn làm theo những điều mà đa số mọi người thường làm, nói chung công việc của bạn sẽ như thế này:
1.Nuôi chủ. Hầu hết những người làm việc hưởng lương đều làm cho các ông chủ hay những cổ đông giàu hơn. Những nỗ lực và thành công của bạn sẽ giúp cho người chủ thành công hơn và có nhiều tiền hơn.
2. Nuôi chính quyền. Chính quyền nhận phần mình trong số lương của bạn thậm chí trước khi bạn nhìn thấy nó nữa. Khi cố gắng làm việc chăm chỉ hơn, chỉ đơn giản là bạn đang làm gia tăng số thuế phải nộp cho chính quyền.
3. Nuôi ngân hàng. Sau khi trả thuế, chi phí lớn nhất kế tiếp thường là những món nợ tín dụng.
Vấn đề là khi bạn cố gắng làm việc chăm chỉ hơn thì ba giới trên sẽ lấy đi một phần chia lớn hơn trong những nỗ lực của bạn. Vì vậy, bạn phải học cách làm thế nào để cho các nỗ lực của bạn có thể làm tăng lợi nhuận trực tiếp cho bản thân và gia đình mình.
Một khi bạn đã quyết định tập trung hết tâm trí để chăm nom việc kinh doanh riêng, bạn sẽ xác định một mục tiêu như thế nào? Với hầu hết mọi người, họ phải giữ lấy nghề nghiệp của mình và dựa vào tiền lương để kiếm tài sản.
Khi tài sản lớn lên, họ sẽ đo mức độ thành công như thế nào? Khi nào người ta mới nhận ra rằng mình đã giàu có, đã có tiền? Ngay khi biết được những định nghĩa về tài sản và tiêu sản, tôi cũng đã định nghĩa riêng cho mình về sự có tiền. Đúng ra tôi đã mượn định nghĩa này của một người bạn tên là Buckminster Fuller. Anh ấy nói: "Sự có tiền chính là khả năng tồn tại của một người trong một số ngày sắp tới..." hay nói cách khác, nếu hôm nay bạn ngưng làm việc thì bạn sẽ tồn tại được bao lâu?
Sự có tiền chính là sự đo vòng quay tiền mặt bên cột tài sản so với cột chi phí.
Hãy lấy một ví dụ nhỏ. Giả sử vòng quay tiền mặt bên cột tài sản của tôi là 1.000$ một tháng. Còn số chi phí hàng tháng của tôi là 2.000$. Vậy khả năng tiền mặt của tôi như thế nào?
Quay về với định nghĩa của Buckminster Fuller. Nếu xét một tháng 30 ngày thì tôi sẽ chỉ có đủ số tiền tiêu dùng trong nửa tháng.
Khi đạt đến mức vòng quay tiền mặt bên cột tài sản là 2.000$ một tháng, tôi sẽ trở nên có tiền.
Như vậy nghĩa là tôi chưa giàu có, nhưng tôi có tiền. Lúc này mỗi tháng tôi sẽ có những thu nhập mới phát sinh từ những tài sản có thể giải quyết vấn đề chi phí hàng tháng cho mình. Nếu muốn tăng chi phí, đầu tiên tôi phải tăng vòng quay tiền mặt từ số tài sản để có thể duy trì sự có tiền này. Chú ý rằng vào thời điểm này, tôi không còn bị phụ thuộc vào tiền lương nữa. Tôi phải tập trung vào và phải thành công trong việc xây dựng cột tài sản đã giúp tôi trở nên sung túc về tài chính. Nếu hôm nay tôi nghỉ việc, tôi vẫn có thể trang trải các chi phí hàng tháng nhờ vòng quay tiền mặt tài sản của mình.
Mục đích kế tiếp là phải có dư một số tiền trong vòng quay tiền mặt để đầu tư trở lại vào cột tài sản. Càng nhiều cột đầu tư vào cột tài sản thì nó sẽ càng phát triển. Và chỉ cần giữ được số chi phí thấp hơn số tiền mặt phát sinh từ những tài sản này thì tôi sẽ càng trở nên giàu hơn, với ngày càng nhiều thu nhập từ những nguồn khác ngoài sức lao động của mình.

Hãy nhớ:
Người giàu mua tài sản
Người trung lưu mua những tiêu sản mà họ nghĩ là tài sản
Người nghèo chỉ có toàn chi phí.

Cha giàu cha nghèo Robert Kiyosaki và Sharon Lechter .doc


Cha giàu cha nghèo Robert Kiyosaki và Sharon Lechter .txt


Cha giàu cha nghèo Robert Kiyosaki và Sharon Lechter .pdf


Posted by phanblogs at 03:58 Không có nhận xét nào:
Labels: Cha giàu cha nghèo, ebook, Rich Dad Poor Dad, Robert Kiyosaki, sách hay, Sharon Lechter

14.7.08

Chân dung một Tester

Chân dung một Tester Tháng 6/1999 tôi bước chân vào FSoft (thời gian đó là FSU1) và bắt đầu với vị trí tester cho dự án LifeServ.
 Lần đầu làm quen với công việc test trong một dự án, mọi thứ đều mới mẻ.

Chân dung một Tester
 Chật vật lắm tôi mới viết xong một tài liệu test, hình như là test plan, nhưng viết xong rồi cũng không bao giờ dùng đến nó nữa!.
 Rồi tháng 5/2000, tôi tham gia test cho dự án đầu tiên của G1 - dự án ProxiGate, cùng với NganVK.
 Trong dự án này, tôi thực hiện tất cả các bước chuẩn bị: viết test plan, test case, làm test data.
 NganVK viết code giả lập front-end để test phần back-end.
 Sau hai dự án đầu tiên này, tôi được “trên” giao cho tìm hiểu về test.
 Đọc và học, tôi đã biết được nhiều điều thú vị về test.
 Điều quan trọng nhất là tôi hiểu tester trong dự án thực sự là một nghề độc lập, một vị trí không thể thiếu trong ngành công nghiệp phần mềm.
Test là một công việc khó, nói đúng ra là một công việc mơ hồ, kém xác định hơn công việc coding.
 Hồi còn đại học, sinh viên chúng tôi được đào tạo về thiết kế chương trình, lập trình còn khái niệm về test chương trình thì “mù tịt”, đâu có được học.
 Khi nhận yêu cầu xây dựng chương trình mới, tôi có thể hình dung được công việc mình sẽ làm, khi nào thì hoàn tất.
 Nhưng mọi việc sẽ không rõ ràng như thế khi tôi nhận test chương trình.
 Khi tự viết một chương trình, bạn dễ tự tin hơn khi khẳng định chất lượng của nó, nhưng khi test chương trình của người khác, việc đó không dễ chút nào.
 Làm sao biết được test bao nhiêu là đủ? Khi nào yên tâm khẳng định rằng chất lượng chương trình đạt để giao cho khách?

Tester phải hình dung các trường hợp có thể xảy ra với chương trình (các test scenario) để thử thực hiện chúng.
 Vậy làm sao đảm bảo rằng không tình huống quan trọng nào bị bỏ qua?.
 Lúc này, tester cần có khả năng phân tích hệ thống, hiểu kỹ về nghiệp vụ (business) của chương trình, đặc biệt, phải có quan điểm độc lập với developer.
 Sau đó, tester viết tất cả những phân tích của mình trong tài liệu test case (hay test design).
 Test case là tài liệu mô tả tất cả các bước tester làm để tạo các tình huống có thể xảy ra và kiểm tra “phản ứng” của chương trình có đúng với kết quả mong muốn không rồi tester tạo ra bộ test data dùng trong quá trình test dựa trên test case mình viết.


Viết test case và chuẩn bị test data chiếm rất nhiều thời gian, cần sự tỉ mỉ và tính cẩn thận của người test.
 Công việc này bắt đầu từ giai đoạn phân tích thiết kế của dự án để hoàn thành trước khi thực hiện test.
 Giống như developer, tester cũng phải update test case và test data khi có sự thay đổi requirement, design của dự án.
 Công việc của chúng tôi sẽ thuận lợi hơn nếu PL luôn nhớ thông báo kịp thời mọi thay đổi.
 Với một khối lượng công việc như vậy, chúng tôi có thể mắc sai sót.
 Vì vậy, việc development team review lại test case là rất cần thiết.


Nếu công việc chuẩn bị suôn sẻ, tester sẽ bắt tay vào test chính thức dự án.
 Rất nhiều tình huống khó khăn có thể xảy đến cho tester lúc này.
 Làm thế nào nếu tiến độ test bị chậm, không kịp test hết test case? Có thay đổi nào trong chức năng chương trình mà tester không được biết? Làm gì đây nếu developer (thậm chí cả PL) không chấp nhận lỗi do tester bắt được? Cãi nhau chăng? Xử lý sao đây nếu developer không unit test cẩn thận, giao cho chương trình quá nhiều lỗi trong khi ngày bàn giao code đã gần kề? Phải làm sao đây nếu việc bug fix kéo đến tận ngày cuối deliver sản phẩm, tester không thể bảo đảm được các phần test trước đó không bị lỗi mới? Áp lực công việc làm cho mọi người dễ nổi cáu, cãi nhau và … stress.


Một tester (chính xác hơn là Test Leader trong dự án) có kinh nghiệm, có trách nhiệm sẽ phải lường trước tất cả những khó khăn đó và có biện pháp đối phó.
 Tài liệu test plan sẽ giúp bạn làm việc đó.
 Nếu test plan được chuẩn bị tốt, nó sẽ trở thành công cụ giúp test team communicate hiệu quả hơn với development team.
 Development team hiểu rõ hơn công việc và khó khăn của nhóm test, tạo điều kiện tốt hơn cho nhóm test làm việc.


Cuối cùng, sau khi test, bạn sẽ lập báo cáo như thế nào? Bản báo cáo phải làm sao để có tính thuyết phục?.
 Nó cần phải chính xác, cụ thể và có lập luận chặt chẽ, một việc không đơn giản.
 Nếu trong test  report bạn có thể đưa ra kết luận chất lượng chương trình chính xác thì bạn đã là một tester cao cấp rồi đấy.


Những công việc và kỹ năng trên đây của tester mới chỉ đủ đáp ứng cho functional test trong giai đoạn system test.
 Để thực hiện performance test, integration test, tester phải có kỹ thuật tốt, cũng như phải biết các phương pháp chuyên dùng để thực hiện test.
 Tuy nhiên đó lại là cả một câu chuyện dài.


Bạn thấy đấy, test đâu phải là công việc đơn giản, thuần tuý “chân tay” theo kiểu chạy đi chạy lại chương trình cần test ngẫu nhiên để xem có lỗi gì không.
 (Thậm chí câu hỏi “hiện tượng vừa xảy ra có thực sự là lỗi không” không phải lúc nào cũng dễ trả lời.
).
 Để trở thành một tester “có đẳng cấp”, bạn cần phải có rất nhiều kỹ năng, từ lập kế hoạch, quản lý công việc, phân tích, viết tài liệu, communication, lên báo cáo, và tất nhiên cả kiến thức vững vàng về kỹ thuật nữa.


Tác giả: Thục Quyên

Posted by phanblogs at 15:58 Không có nhận xét nào:
Labels: Bươn chải, fpt, Tester, tin học

13.7.08

How Would You Move Mount Fuji

Làm thế nào dịch chuyển núi Phú Sĩ
How Would You Move Mount Fuji
Phần 1
Cần bao nhiêu thời gian để có thể dịch chuyển núi Phú Sĩ? Tại sao hai đầu lon bia lại hơi nhỏ lại? Có phải lúc nào mặt trời cũng mọc ở hướng đông?... Những câu hỏi không ai biết đáp án chính xác là gì như thế đang được các tập đoàn hàng đầu thế giới áp dụng khi tuyển dụng người tài, chọn đúng người cho tương lai.

Năng lực trí tuệ, sự sáng tạo và cách nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ được xem là những đặc tính cần thiết để tồn tại trên thương trường đầy cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.

Con nhân sư và Microsoft


Trong các trò chơi điện tử, bạn liên tục gặp phải những đối thủ lạ lùng luôn tìm cách tấn công bạn. Để được lên bậc cao hơn, bạn cần phải chiến thắng và giải quyết được một vấn đề hoặc một câu hỏi nào đó.

Rất ít người đạt được đến trình độ cao nhất. Trò chơi này chính là sự nâng cấp của câu chuyện thần thoại Hi Lạp về con nhân sư và chàng Oedipus. Con nhân sư sẽ ăn tươi nuốt sống bất cứ ai không giải được câu đố “Con gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân?”. Oedipus giải được câu đố của nhân sư. Đó là con người.

Thử thách bằng câu đố


Câu chuyện về con nhân sư cho đến nay vẫn còn đọng lại một điều gì đó để suy ngẫm. Huyền thoại về những người chứng minh được lòng quả cảm bằng cách bắt tay vào giải đáp các câu đố khó vẫn thường xuất hiện trong mọi nền văn hóa trên khắp thế giới.

Việc thử thách bằng các câu hỏi hóc búa có lẽ đã được các thiền sư Nhật Bản nâng tới đỉnh cao nghệ thuật. Một lần, thiền sư Shuzan giơ cây gậy ngắn lên và nói với một môn đệ của mình như sau: “Nếu ngươi gọi nó là đoản trượng, ngươi phản thực tại. Nếu ngươi không gọi nó là đoản trượng, ngươi phản chứng cớ. Bây giờ ngươi gọi nó là cái gì nào?”. Các bạn hãy nhớ, theo truyền thống của Thiền tông, mỗi câu trả lời không đúng bạn sẽ bị chính cái gậy này quật mạnh vào đầu.

Microsoft đã áp dụng ý tưởng “thử thách bằng câu đố” của người xưa vào cuộc sống ngày nay. Khi dùng chúng để lựa chọn nhân viên, Microsoft đã nhắm tới khía cạnh hấp dẫn hơn của thế hệ sinh ra trong thời đại kỹ thuật số - khái niệm về sự độc lập trong suy nghĩ, thái độ biết nghi ngờ trước những giá trị đã được thiết lập.

Microsoft là một chốn can qua, minh chứng đồng thời cho những đặc tính tốt nhất cũng như dở nhất của cộng đồng nước Mỹ. Hãng phần mềm do Bill Gates và Paul Allen sáng lập nên là một trong những câu chuyện thành công nhất thế giới trong 25 năm cuối cùng của thế kỷ 20.

Sự cáo buộc của Bộ Tư pháp Mỹ đối với Microsoft liên quan đến việc vi phạm luật chống độc quyền cũng không làm giảm đi uy tín của hãng. Thậm chí ngược lại: Microsoft ngày nay bị mang tiếng xấu nhưng ai cũng biết rằng trong cái rủi có cái may. Người ta vẫn nghi ngại về Microsoft, và họ cũng lại cho rằng nếu hãng máy tính này sử dụng cách thức tuyển dụng đó, có thể xét ở khía cạnh đạo đức học thì quá lố, song chắc hẳn nó phải đem lại hiệu quả.

Với việc thư giới thiệu ngày càng ít phổ cập và ít tác dụng, nhà tuyển dụng sẽ phải tìm đến những nguồn thông tin khác. Phỏng vấn là một trong những phương pháp trực tiếp hữu hiệu nhất để đánh giá ứng viên. Các chuyên gia nhân sự phân loại câu hỏi phỏng vấn thành hai dạng: dạng “truyền thống” và dạng “hành vi”.

Câu hỏi truyền thống bao gồm tất cả các khuôn mẫu cũ mà bất cứ một công dân Mỹ nào khi đi tìm việc đều thuộc nằm lòng: “Bạn muốn mình sẽ trở thành người thế nào sau năm năm nữa? Bạn thường làm gì trong các ngày nghỉ? Hãy cho biết tên cuốn sách cuối cùng bạn đã đọc? Bạn tự hào điều gì nhất ở bản thân?”.

Xem chừng các câu hỏi này là về tính trung thực. Nhưng suy cho cùng, chúng mang tính ngoại giao. Chính điều này dẫn đến sự phát triển các câu hỏi hành vi. Một ví dụ được Microsoft sử dụng: “Bạn hãy kể lại một tình huống khó khăn mà bạn đã gặp phải trong cuộc sống và đã giải quyết nó một cách tốt đẹp”. Ví dụ khác: “Hãy kể lại một trường hợp bạn không đủ thời gian cho công việc cần phải kết thúc vào một thời hạn đã định”.

Ưu điểm của những câu hỏi hành vi so với những câu hỏi truyền thống là ở chỗ bịa ra cả một câu chuyện thì bao giờ cũng khó hơn một câu đáp ngắn. Nhưng đáng tiếc rằng cả câu hỏi truyền thống lẫn câu hỏi hành vi đều không thể thay đổi được hai giây nhìn nhận ban đầu của người phỏng vấn, không chứng tỏ rõ ràng là cách thức hữu hiệu cho các buổi phỏng vấn tuyển dụng nhân sự với quĩ thời gian luôn eo hẹp.

QUOTE

Top ten của top ten


Có thể xem Microsoft là vương quốc của nhân tài trên cơ sở bình đẳng. Tập đoàn máy tính này kiên quyết chỉ tuyển dụng những người thuộc nhóm “10% tốt nhất trong số 10% những người xuất sắc nhất”, hay còn gọi là “top ten của top ten”. Những cuộc phỏng vấn của Microsoft được tiến hành cẩn thận nhằm lọc đi những người “vừa vặn đủ năng lực” - nghĩa là những người không đạt tới mức yêu cầu của hãng về động lực cạnh tranh cũng như khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Giống như con nhân sư, bộ phận tuyển nhân sự của Microsoft để lại vô số ứng viên đã gục ngã.

Lấy tương lai làm định hướng


“Điều quan trọng nhất mà chúng tôi phải làm là tuyển chọn được người tài vào làm việc” - đó là thông điệp mà ông Steve Ballmer, tổng giám đốc của Tập đoàn Microsoft, thường nhắc đi nhắc lại. Nhưng làm thế nào để có thể phát hiện những người tài? Ngày nay thật khó đánh đồng tài năng với một tập hợp các kỹ năng đặc trưng. Kỹ năng có thể trở nên vô dụng vào ngày hôm sau.

Microsoft hiểu rõ rằng họ cần tìm được những người có tài năng làm việc cho mình - những người có khả năng tạo ra một Microsoft với vị thế mới trong tương lai năm hay mười năm sau. Microsoft lấy tương lai làm định hướng trong việc tuyển nhân viên.

Ở mức độ cao hơn bất cứ một tập đoàn lớn nào khác, Microsoft nhìn nhận ứng viên xin việc như những “tờ giấy trắng”. Quan điểm của hãng là nhận người vì những công việc họ có thể làm trong tương lai chứ không phải vì những việc họ đã làm được trong quá khứ.

Cũng bởi lập trình được coi là chuyên ngành của những người trẻ tuổi mà Microsoft đã đón nhận một số lượng lớn các sinh viên mới tốt nghiệp vào làm việc. Vì vậy kinh nghiệm làm việc không phải là tiêu chuẩn bắt buộc trong các quyết định tuyển dụng. Hãng này không quan tâm lắm đến việc ứng viên đã tốt nghiệp trường đại học nào, có bằng cấp gì.

“Chúng tôi hiểu rất rõ uy tín ảo của các trường đại học” - một trong số những nhân viên điều hành cao cấp của tập đoàn tuyên bố. Thật ra, tình hình này đã có ít nhiều thay đổi, và Bill Gates - người từng bỏ dở việc học hành tại Trường ĐH Harvard - đã bắt đầu khuyến khích các ứng viên muốn vào làm việc ở đây nên có bằng cấp tử tế. Tuy nhiên Microsoft chưa bao giờ nhận người vào làm việc chỉ vì họ đã tốt nghiệp đại học.

Microsoft cũng là một tập đoàn có tư tưởng nước lớn. Nhân viên của Microsoft ở Redmond ngầm cho rằng các đối thủ cạnh tranh khác như Sun, Oracle, IBM cũng như tất cả các hãng còn lại chỉ là địa chỉ đầu quân của những kẻ thất bại, lười biếng và dốt nát - tóm lại là những kẻ “trượt vỏ chuối” trong các kỳ tuyển dụng vào Microsoft.

Kinh nghiệm làm việc duy nhất được thừa nhận - đó là kinh nghiệm làm việc tại Microsoft. Vì vậy nếu ứng viên đã có kinh nghiệm làm việc, mấu chốt quan trọng vẫn là khả năng anh ta có thể làm được gì trong tương lai. Việc dự đoán tương lai của ứng viên phụ thuộc vào việc anh ta trả lời những câu hỏi trong thời gian phỏng vấn tốt đến mức độ nào.

Adam David Barr, cựu nhân viên trong bộ phận tuyển nhân sự của Tập đoàn Microsoft, nói: “Microsoft tin là có thể đánh giá được một con người thông qua bốn hay năm cuộc phỏng vấn dài một giờ”.

---WILLIAM POUNDSTONE---

Bạn có tám đồng xu, một trong số đó nhẹ hơn những đồng còn lại. Hãy xác định nó sau hai lần cân so sánh mà không dùng quả cân... Những câu hỏi nát óc như vậy có thể đánh giá tài sản quí của con người: chỉ số thông minh (IQ). Có lúc ở Mỹ, chính quyền đã cấm việc trắc nghiệm IQ, nhưng tài sản đó vẫn bất biến.

Và thung lũng Silicon cũng ra đời nhờ tài sản đó.............

Phần 2

Q và thung lũng Silicon


Thời trẻ, Bill Gates thường được nhắc đến như là tác giả của câu nói rằng trên đời này chỉ số trí tuệ là tất cả. Bill Gates say sưa với chỉ số trí tuệ như một số doanh nhân thời bấy giờ nghiện xì gà, rượu Martini hoặc miếng bít tết lòng đào to tướng.

Bill Gates giải thích triết lý tuyển nhân viên của ông như sau: với một người thông minh và nắm bắt vấn đề nhanh thì bạn có thể dạy họ bất cứ điều gì. Vậy thực chất trí tuệ là gì?

Cha con nhà Terman


Nhà tâm lý học Lewis M.Terman (1877 - 1956) là giảng viên tại Trường đại học Stanford, ông đã soạn thảo trắc nghiệm kinh điển để đánh giá chỉ số trí tuệ và tuyên truyền không mệt mỏi việc sử dụng chúng. Sau vài năm giảng dạy, Lewis Terman trở thành ngôi sao sáng nhất trong số những giáo viên ở Stanford, là người có công đưa Trường Stanford thành một trong những trung tâm tri thức quan trọng bậc nhất thế giới, và thung lũng nhỏ Silicon trước kia chỉ được biết đến như là nơi trồng mơ thì nay đã có vị trí xứng đáng trên bản đồ địa lý thế giới. Lewis đã dịch sang tiếng Anh một trong những trắc nghiệm đầu tiên về trí tuệ của chuyên gia tâm lý học người Pháp Alfred Binet. Lịch sử đã trùng lặp khi cả Lewis và con trai ông

- Frederick - đều đóng những vai trò quan trọng trong việc biến thung lũng Silicon thành một trung tâm công nghệ cao của thế giới.

Kết quả trắc nghiệm trí tuệ Stanford-Binet được Terman đặt cho một cái tên rất “đắt” và dễ nhớ là chỉ số trí tuệ (còn gọi là chỉ số thông minh), viết tắt là IQ (intelligence quotient). Nhà tâm lý học William Stern trước đó từng đề nghị chia số “tuổi trí tuệ” của một đứa trẻ cho tuổi sinh học của nó để nhận được cái gọi là “chỉ số phát triển trí tuệ”. Chỉ số này cho biết đứa trẻ thông minh tới mức độ nào. Terman phát triển ý tưởng của William Stern

Công thức này không thích hợp lắm đối với người lớn. Chẳng hạn, nếu một người có tuổi sinh học là 30 nhưng lại có tuổi trí tuệ của người 50 tuổi thì điều này sẽ nói lên điều gì? Terman đã giải quyết vấn đề này bằng cách đơn giản như sau: ông sửa lại giá trị của IQ để sao cho con số 100 là chỉ số trí tuệ trung bình của một người bất kể ở tuổi tác nào. Terman ước mơ biến nước Mỹ thành một xã hội lý tưởng trọng dụng nhân tài, trong đó từ những người trí tuệ kém phát triển cho đến những thiên tài đều được làm những công việc thích hợp tương ứng với IQ của mình.

Nói đến thung lũng Silicon thì phải nói về con trai của Lewis Terman - Frederick Terman. Bạn sẽ thấy ngày nay tên tuổi dòng họ Terman xuất hiện khắp nơi trong Trường đại học Stanford. Terman con xuất thân là một kỹ sư điện, sau đó trở thành giáo sư, chủ nhiệm khoa và cuối cùng là hiệu trưởng Trường đại học Stanford. Ông cũng là người có công nhiều nhất đưa trường đại học của mình lên vị trí như hiện nay. Đóng góp của Frederick đối với văn hóa Mỹ không kém gì so với đóng góp của cha ông. Với ý muốn xóa đi khoảng cách giữa giới kinh doanh và nền khoa học hàn lâm, ông mơ ước thành lập một khu công nghiệp ở Palo-Alto, ngay cạnh trường đại học. Năm 1918, ông đã thuyết phục được hai sinh viên tài năng của mình là William Hewlett và David Packard mở xưởng sản xuất trong một nhà để xe tại Palo-Alto, sản phẩm đầu tay của họ là các máy phát âm thanh tần số thấp. Năm 1956, Terman thu hút được một doanh nhân nổi tiếng thời bấy giờ tham gia dự án của mình: William Shockley. Lúc này, Shockley đang nung nấu ý định thành lập công ty riêng nhằm thương mại hóa công nghệ bán dẫn. Hoạt động quản lý công ty của Shockley bắt đầu từ việc phỏng vấn tuyển nhân sự. Ông buộc mọi ứng viên đều phải làm trắc nghiệm IQ. Và ông đã tìm được những kỹ sư và nhà khoa học tài năng tầm cỡ quốc tế. Gordon Moore (tác giả của định luật Moore nổi tiếng và là người đồng sáng lập Công ty Intel) nhớ lại hồi đó khi ông làm các bài trắc nghiệm thì Shockley cầm chiếc đồng hồ bấm giây. Sau cuộc phỏng vấn, Shockley đánh giá Moore đủ thông minh để được nhận vào làm việc.

“Lời đề nghị khiếm nhã”


Một trong số những “lời đề nghị hết sức khiếm nhã” của Shockley thời đó đối với Chính phủ Mỹ là chính phủ nên trả một khoản tiền bồi thường nào đó cho những người có IQ thấp, đổi lại những người này sẽ triệt sản vĩnh viễn, khước từ quyền có con nối dõi. Ông đề nghị khoản tiền đó tính như sau: nếu IQ trung bình là 100, những người trí tuệ kém phát triển sẽ có IQ nhỏ hơn 100, và số tiền bồi thường cho họ sẽ là (100 - giá trị IQ của họ) x 1.000 USD! Sau đó ông lại nhận thấy rằng đối với những người thiểu não thật sự thì phép tính này là rất khó hiểu, vậy lại phải đưa thêm ra một phần thưởng đặc biệt kèm theo dành cho những người có công thuyết phục họ đi triệt sản.

Năm 1989, khi cái chết cận kề, Shockley đã thành công trong việc biến hai khái niệm chỉ số trí tuệ và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trở thành đồng nhất trong nhận thức của xã hội Mỹ. Ông đã làm cho tất cả mọi người phải xa lánh, kể cả những người mang trong mình dòng máu của ông. Chuyện về Shockley có lúc đã làm người dân Mỹ dần dần vỡ mộng về tính vạn năng của trắc nghiệm IQ. Từ những năm 1930, các trường đại học và các nhà tuyển dụng đã bắt đầu hiểu ra rằng trắc nghiệm IQ hoàn toàn không phải là phương thuốc trị bách bệnh như Terman từng tuyên truyền. Năm 1964, do có sự phân biệt chủng tộc nên việc kiểm tra IQ ở các trường phổ thông tại New York bị đình lại. Đến năm 1971, Tòa án tối cao Mỹ đã ra quyết định cấm sử dụng các bài trắc nghiệm IQ trong phần lớn các dạng tuyển dụng nhân sự. Tuy nhiên, vượt qua những cấm đoán, việc trắc nghiệm IQ vẫn diễn ra ở những công ty, bởi vì họ biết đó là cách để phát hiện người tài.

Nhiều người biết rõ rằng có sự giống nhau giữa các cuộc phỏng vấn của Microsoft với các trắc nghiệm IQ. Các chuyên gia tuyển nhân sự của Microsoft sử dụng bài toán đong 7 lít nước bằng hai cái bình 3 lít và 5 lít. Đây là bài toán rất giống với đề bài trong trắc nghiệm Stanford - Binet. Quan niệm về phương pháp phỏng vấn của Microsoft rất giống với quan niệm về những nghi lễ nhập môn khổ ải của hội huynh đệ nào đó: đối với những người dễ dàng trải qua những thử thách đó, họ có cách nhìn tích cực hơn nhiều so với những kẻ buộc phải “hành xác” bằng cách đứng phơi sương cả đêm giữa cánh đồng ngô với độc bộ đồ lót trên người mà cuối cùng thì vẫn xôi hỏng bỏng không, không được tiếp nhận vào hội.

Microsoft không phải là nơi phát sinh ý tưởng này. Các tài liệu mới nhất cho thấy việc sử dụng các bài toán đố trong các cuộc phỏng vấn bắt đầu vào năm 1979. Steve Abell (hiện là chủ tịch Công ty brising.com hoạt động trong lĩnh vực tư vấn phần mềm) nhớ lại vào năm đó ông có trải qua một cuộc phỏng vấn tuyển nhân sự ở Công ty Hewlett - Packard, nơi người ta đề nghị ông giải một bài toán logic. Câu hỏi đầu tiên dành cho Steve Abell ở Hewlett - Packard hồi đó như sau: “Bạn có tám đồng xu, một trong số đó nhẹ hơn những đồng còn lại. Hãy xác định nó sau hai lần cân so sánh mà không dùng quả cân”. Các “công dân Silicon” ngày nay luôn tự hào cho rằng các cuộc phỏng vấn trí tuệ bắt nguồn từ thung lũng nổi tiếng này.


---WILLIAM POUNDSTONE ---

Những cuộc phỏng vấn luôn tạo stress cho bạn bằng những câu hỏi mà bạn cho là điên khùng. Họ không điên khùng đâu. Nếu bạn thật sự có tài, khi bạn bước ra khỏi cửa, người phỏng vấn sẽ gọi bạn trở lại. Vì đó là Wall Street - “bộ não” tài chính của thế giới.

Phần 3
Căng thẳng với Wall Street

Những năm 1990, cách phỏng vấn của Microsoft đã trở thành chứng bệnh di căn. Các câu hỏi hóc búa, trò đố mẹo hoặc những yêu cầu kỳ quặc bắt đầu được các công ty ở bên ngoài trục Seattle - Silicon sử dụng rộng rãi.

Một trong những nơi mà các câu hỏi phỏng vấn khó trả lời được đưa ra nhiều nhất là cộng đồng tài chính ở New York (Mỹ).

Cánh cửa việc làm chỉ mở ra cho con sói


Phỏng vấn bằng cách đặt câu hỏi trí tuệ rất phù hợp với “văn hóa Phố Wall”. Ở nơi cuộc cạnh tranh diễn ra rất khốc liệt và ranh giới thị phần là rất mong manh, giới tài chính luôn có các cuộc phỏng vấn tuyển nhân tài rất khắt khe. Với kiểu “phỏng vấn căng thẳng” hay phỏng vấn tạo stress, người ta cố gắng làm cho ứng viên cảm thấy không thoải mái để thăm dò phản ứng của anh ta/cô ta.

Theo qui trình của “liệu pháp im lặng”, bạn sẽ được mời đến phỏng vấn tại phòng làm việc của ai đó ở Wall Street. Trong vòng 5 hay 10 phút, những người ở đây không nói gì với bạn cả. Bạn tự giới thiệu về mình, giơ tay ra bắt, không một phản ứng nào hết. Người phỏng vấn có thể đọc báo, xem bản lý lịch của bạn. Và không nói một lời. Hoặc có thể người phỏng vấn giả vờ ngủ thiếp đi. Chuyện này tưởng như đùa, nhưng lại là kiểu chiến thuật tương đối thông dụng đến nỗi WetFeet.com - một trang web dành cho những người đang tìm việc - đã mở một diễn đàn thảo luận về việc ứng viên nên đối phó như thế nào khi bị rơi vào tình huống này. Trang web này khuyên bạn nên viết vào mảnh giấy dòng chữ “Tôi rất hài lòng về cuộc gặp gỡ với ngài” đặt trên bàn của người phỏng vấn đang thiu thiu ngủ rồi đứng lên ra về. Bạn hãy hi vọng rằng người phỏng vấn sẽ gọi bạn trở lại trước khi bạn ra khỏi cửa. Hoặc bạn được dẫn vào phòng họp và được đề nghị “ngồi xuống đâu đó”.

Sau khi bạn đã thực hiện yêu cầu, người phỏng vấn sẽ hỏi: “Tại sao anh/chị lại ngồi chỗ đó?”. Những chiếc bàn ở đa số các phòng họp thường có hình chữ nhật. Bạn sẽ chọn ngồi chỗ nào, ở đầu bàn hay ở cạnh bàn? Ở đây, thâm ý của nhà tuyển dụng là những con sói - những người có bản lĩnh mạnh mẽ hay chọn chỗ ngồi ở đầu bàn, còn những con cừu - những người nhút nhát thì ngồi sang bên cạnh. Cánh cửa việc làm chỉ mở ra cho con sói mà thôi.

Công ty Lehman Brothers đã trở nên nổi tiếng nhờ vào lời đề nghị các ứng viên mở cửa sổ. Yêu cầu này được đưa ra cũng bình thường như việc người phỏng vấn xin lỗi đi ra ngoài vì có điện thoại ở phòng bên cạnh. Vấn đề là Công ty Lehman Brothers tổ chức buổi phỏng vấn này ở một văn phòng nằm trong tòa nhà chọc trời, nơi cửa sổ không mở được! Goldman Sachs đã sử dụng câu đố yêu cầu cân tám viên bi để tìm ra một viên nặng hơn trong số đó.

Còn Công ty Smith Barney thì hỏi ứng viên phải làm thế nào để đong được 4 gallon nước bằng hai chiếc bình có dung tích 3 gallon và 5 gallon. Câu hỏi “Tại sao các nắp cống trên đường có hình tròn mà không phải hình vuông?” và những câu hỏi không có câu trả lời chuẩn khác cũng hay được sử dụng.

Liệu bạn sẽ hỏi gì khi đối diện với câu hỏi tình huống “nát óc” này: Đối diện với bạn là hai cánh cửa. Một cửa dẫn đến địa điểm phỏng vấn, còn cửa thứ hai dẫn đến lối đi ra ngoài. Cạnh cửa có một người đang đứng. Người này có thể là nhân viên của công ty, nhưng cũng có thể là nhân viên của đối thủ cạnh tranh. Nhân viên của chúng tôi bao giờ cũng nói thật, còn nhân viên của công ty cạnh tranh luôn luôn nói dối. Bạn được phép đặt ra cho người này một câu hỏi để tìm ra cánh cửa dẫn đến địa điểm phỏng vấn.

Điên rồ và hà khắc


Công ty Development Dimensions International (DDI) khẳng định rằng họ đã giúp các công ty tuyển được 15 triệu nhân viên nhờ vào phương pháp gọi là “tuyển nhân viên dựa trên năng lực” mà công ty vẫn tự hào.

Một trong số những công ty sử dụng dịch vụ của DDI là Unisys. Những ứng viên vào các vị trí quản lý ở Unisys được yêu cầu dành ra một ngày để điều hành một công ty ảo có tên Pilot, Inc. Ứng viên được dẫn đến văn phòng giả định là của công ty này (thực chất là văn phòng của DDI) giống như anh ta/cô ta đã được tuyển vào vị trí điều hành và hôm nay là ngày làm việc đầu tiên của họ.

Ứng viên này ngồi xuống và bắt đầu giải quyết một lượng dồn dập các thư điện tử, điện thoại mỗi lúc một tăng... Các nhà tâm lý của DDI quan sát ứng viên qua màn hình vô tuyến để đánh giá xem họ thực hiện công việc thế nào. Người sáng lập DDI, William Byham, giải thích: “Chúng tôi đem tất cả mọi sự khủng hoảng mà người quản lý có thể gặp phải trong một năm và góp lại chỉ trong một ngày”.

Nhiều công ty có khuynh hướng “no dồn, đói góp”. Mọi người đã trải qua những cuộc phỏng vấn tuyển dụng “nát óc” nói chung thường ra về với một trong hai cảm giác sau: cuộc phỏng vấn thật là điên rồ, hoặc cuộc phỏng vấn này hà khắc.

Từ đây có thể suy ra rằng những cuộc phỏng vấn ở bất cứ công ty nào khác cũng sẽ điên rồ hơn và/hay hà khắc hơn. Người chịu trách nhiệm tuyển nhân sự của Công ty Blair Television (một hãng ở New York chuyên bán các chương trình quảng cáo trên vô tuyến) tăng thêm gia vị cho cuộc phỏng vấn của mình bằng cách giả vờ tìm kiếm thứ gì đó trong ngăn kéo rồi lấy ra một quả lựu đạn. “Nếu anh/chị giỏi như vậy - bà nói với các nhân viên bán hàng tương lai - thì hãy thử bán cho tôi vật này đi”.

Đối với những người thiếu kinh nghiệm trả lời phỏng vấn thì phương pháp của Zefer Corp. được ưa chuộng hơn cả. Ứng viên được giao cho một bộ xếp hình Lego và anh ta/cô ta có năm phút để lắp ráp thành một cái gì đó. Đó là phần A của cuộc phỏng vấn. Phần B là “Hãy giải thích anh/chị vừa xếp hình gì”. Susan Perry, “phó chủ tịch tìm kiếm nhân tài” của Zefer, luôn khẳng định rằng bài trắc nghiệm Lego “đã gợi mở những cuộc đàm thoại thú vị và tiết lộ bản chất của ứng viên, điều luôn kích thích sự tò mò và thách thức nhà tuyển dụng”.

Đến với Wall Street, bạn đừng ngạc nhiên khi có nhiều công ty hỏi các ứng viên câu hỏi thiết kế phòng... toilet, chỉ khác nhau ở chỗ thay đổi giới tính và đặc điểm của nhân vật chính. Ví dụ có công ty đã hỏi: "Bạn có thể đưa ra thiết kế phòng vệ sinh như thế nào dành cho một phu nhân giàu có nặng 150kg?". Hoặc bạn cũng đừng e ngại mà hãy bình tĩnh và sáng suốt khi đối diện với câu hỏi "điên khùng" như thế này: Bạn có thể đưa ra mẫu thiết kế như thế nào dành cho phòng vệ sinh của Bill Gates? Trong trường hợp này, trí tưởng tượng của bạn phải phát huy, hãy hình dung rằng bạn ngồi cùng Bill Gates và nghe ông ta nói về ước mơ của mình trong việc sở hữu một phòng vệ sinh lý tưởng…
bằng cách nhân con số thu được với 100 và đặt tên cho nó là “chỉ số trí tuệ”. Cái tên IQ đã ra đời như vậy.
QUOTE

Cần bao nhiêu thời gian để dịch chuyển núi Phú Sĩ?


Công ty tư vấn Booz, Allen & Hamilton có lẽ là tác giả của câu hỏi độc đáo này. Bạn hãy lên kế hoạch tưởng tượng nhưng rất khoa học là sẽ dịch chuyển nguyên vẹn cả núi Phú Sĩ theo cách các quốc vương châu Âu bắt các kỹ sư chuyển nguyên các tượng đài Ai Cập về thủ đô của mình.

Bài toán này trải qua rất nhiều thông số: thể tích, khối lượng, cần bao nhiêu xe tải, bao nhiêu người làm việc mỗi ngày... Nếu chúng ta thử nghiệm phương pháp không kém phần thiếu thực tế là huy động 6 tỉ người sống trên trái đất cùng tham gia (và cung cấp cho họ đủ dụng cụ và sắp xếp sao cho mọi người không cản trở công việc của nhau) thì có thể dịch chuyển núi Phú Sĩ trong hai ngày. Cứ cho là Chính phủ Nhật quyết định dịch chuyển núi Phú Sĩ và huy động được một nguồn lực to lớn để thực hiện nhiệm vụ này với 10.000 nhân công, họ cần phải thực hiện nhiệm vụ này trong 1 triệu ngày, hay khoảng 3.000 năm.

Nhiều câu hỏi sẽ không bao giờ có câu trả lời chính xác, song cách bạn suy nghĩ, tính toán, đưa ra phương án, người ta sẽ biết bạn là người đủ thông minh hay không, có làm được gì cho tương lai hay không, có khát vọng hay không…


---WILLIAM POUNDSTONE ---

Con người từ lâu đã có ước mơ về trí tuệ nhân tạo, về những máy móc được lập trình để suy nghĩ, nhận định và giải quyết vấn đề giống như con người. Muốn làm được điều đó, con người phải nghiên cứu một điều quan trọng: con người suy nghĩ để giải quyết vấn đề như thế nào. Một cuộc vật lộn với robot đã diễn ra…

Phần4

Trí tuệ nhân tạo


Đối diện với những vấn đề hóc búa, những trường hợp chưa biết, bạn phải làm thế nào để có thể giải được chúng? Con người từ lâu đã muốn trả lời câu hỏi này.

Xét từ một góc độ nào đó thì đây là vấn đề mấu chốt của việc nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI - artificial intelligence).Một trí tuệ nhân tạo hoàn hảo chỉ có trong phim A.I. của Steven Spielberg, còn thực tế AI vẫn là giấc mơ .

Mọi con đường đều dẫn đến lời giải

Bill Gates và gần như tất cả đồng nghiệp của ông đã trưởng thành từ ước mơ về trí tuệ nhân tạo (còn gọi là trí thông minh nhân tạo), về những máy móc được lập trình để suy nghĩ, nhận định và giải quyết vấn đề giống như con người. Một trong những phương pháp truyền thống để tiếp cận AI bắt đầu từ việc nghiên cứu quá trình con người suy nghĩ để giải quyết các vấn đề như thế nào.

Herbert Simon (1916-2001) được xem là cha đẻ của các công trình nghiên cứu hiện đại chuyên về cách giải quyết vấn đề. Phần lớn sự nghiệp của người đàn ông tài ba này (đã đoạt giải Nobel kinh tế năm 1978) diễn ra tại Trường đại học Carnegie - Mellon, nơi có truyền thống nghiên cứu lĩnh vực máy tính và người máy.

Simon muốn khám phá cách giải quyết vấn đề của con người để từ đó nghiên cứu cách lập trình cho máy tính, nhằm mục đích biến máy tính thành công cụ có thể làm thay công việc của con người. Simon phát hiện sau vài lần thất bại thì phần lớn mọi người đều tìm được câu trả lời đúng, không bao giờ việc giải các câu hỏi hóc búa hay các phát minh khoa học lại là kết quả của một phút thăng hoa bất ngờ. Tất cả là nhờ “không gian giải pháp”.

Bạn phải tìm sách trong thư viện như thế nào nếu sách ở đây không được xếp theo danh mục? Thiền sư người Nhật Shin’ichi Hisamatsu nói rằng tất cả các công án (tên gọi các bài “toán đố” của phái thiền) có thể được rút gọn lại thành một công thức sau: “Không được phép làm gì cả. Vậy bạn làm gì?”.

Phương án được Microsoft đưa ra như sau: Không có khả năng có thể tìm thấy cuốn sách. Vậy bạn làm gì? Việc duy nhất mà bạn có thể làm là tìm trong “không gian giải pháp” một cách hiệu quả nhất trong chừng mực có thể. Bạn cần phải chuẩn bị tinh thần, đừng vội vã dừng lại ngay từ đầu (chẳng có gì đạt được mà không phải đổ mồ hôi sôi nước mắt cả). Đó cũng chính là điểm khác nhau giữa những người giải được các bài toán đố và những người không giải được.

Sau khi bước qua sự phân tích đầu tiên, bạn sẽ thấy bài toán trở nên đơn giản hơn rất nhiều lần so với hình dung ban đầu. Cây khả năng sẽ không phân nhánh một cách vô hạn và tất cả mọi con đường đều sẽ dẫn bạn đến với lời giải đúng. Gần như tất cả các câu hỏi hóc búa đều có chung một kết cục như vậy. Đối với phần lớn mọi người, các suy luận thường là khó nhưng đối với máy tính thì ngược lại, có những thuật toán hữu hiệu để tìm kiếm theo sơ đồ hình cây và “tìm nhánh” (như công cụ tìm kiếm trên mạng Internet Yahoo! hay Google).

Tại sao có thể đánh bại robot?

Chắc hẳn bạn cũng đã từng được xem các trận chiến giữa những người máy trên tivi. Con người chế tạo ra chúng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là phá hủy những người máy khác. Sau đó, chúng được đưa lên đấu trường để chúng ta theo dõi chuyện gì sẽ xảy ra. Những cuộc tranh tài như vậy ít ra cũng chứng minh được một điều: “phá hủy” người máy là điều quá đơn giản.

Việc chiến thắng người máy nói chung là dễ dàng vì chúng chỉ hành động theo những gì mà chương trình đã lập sẵn. Người máy không nhìn thấy toàn bộ diễn biến của sự việc (không có tầm nhìn toàn cảnh) và không bao giờ có được những quyết định bất ngờ (những suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ).

Ví dụ, bạn có một người máy có đặc tính tự bảo vệ mình bằng súng phun lửa. Chỉ cần những người máy khác lọt vào bán kính 3m xung quanh nó, lập tức súng phun lửa sẽ hoạt động và mục tiêu chắc chắn là bị phá hủy. Để có thể chiến thắng loại người máy này, chỉ cần chế tạo một người máy khác có khả năng phun xăng vào đối tượng cách nó 3,5m sau đó lập tức chạy ra xa, người máy của chúng ta sẽ phát lửa vào đối thủ và đồng thời tự hủy diệt mình.

Trong khi nếu là con người ở trường hợp đó, hiển nhiên chúng ta sẽ nghĩ rằng “người mình đẫm xăng thế này thì dại gì lại sử dụng súng phát hỏa cơ chứ”. Nhưng với người máy thì không, nó không “thông minh” để có khả năng suy luận như con người. Đây là một trong những vấn đề khó nhất của AI.

Khi mà người máy bất khả chiến bại của bạn vừa bị hạ gục và chỉ còn là một đống kim loại bỏ đi, phản ứng tự động của bạn sẽ là cố gắng tìm cách chế tạo một người máy mới tốt hơn, với những tính toán kỹ càng hơn sao cho sản phẩm này có khả năng nhận biết các yếu tố của môi trường xung quanh, đồng thời biết “suy ngẫm”, dự tính về những diễn biến, hậu quả có thể xảy ra trong hành động của mình. Đây là những mục tiêu tốt đẹp. Nhưng trong thế giới mã máy tính và những con chip, để thực hiện được điều đó cần phải có một sự nỗ lực khủng khiếp.

Việc mở rộng khả năng bao quát của người máy đòi hỏi khối lượng tính toán của bộ óc nhân tạo phải tăng theo cấp số mũ. Càng phải dự tính được nhiều hậu quả xảy ra sau mỗi hành động của mình thì người máy càng có những phản ứng chậm chạp. Và có lẽ chẳng có gì tồi tệ hơn một người máy chậm chạp.

Nói chung, loài người “đóng khung” các vấn đề tốt hơn hệ thống trí tuệ nhân tạo tân thời. Bằng cảm tính của bản năng, chúng ta hiểu được điều gì là quan trọng và điều gì không quan trọng đối với mỗi trường hợp mà chúng ta gặp phải, mặc dù cảm tính đó cũng có lúc sai. Để có thể dễ dàng giải các bài toán đố, bạn phải đồng thời suy nghĩ theo ít nhất hai hướng. Hướng thứ nhất để giải bài toán, hướng thứ hai là theo dõi khả năng thành công của hướng thứ nhất.

Bạn cần phải liên tục tự đặt câu hỏi cho bản thân: Liệu cách giải quyết này có đúng không? Còn phải mất bao nhiêu thời gian nữa và khả năng mình đang đi đúng hướng là bao nhiêu phần trăm? Liệu có nên thử thêm cách khác nữa không? Khả năng tự nhận thức cao là đặc điểm của những người luôn tìm được câu trả lời đúng cho các bài toán đố. Bạn cũng có thể nhận thấy đặc điểm đó cả ở những người thành công khi đi phỏng vấn tuyển dụng, vì đối với họ việc quan trọng không những là phải trả lời đúng các câu hỏi mà còn là hiểu như thế nào, vấn đề cần được xem xét đến đâu.

Bill Gates khẳng định không có bất cứ một tập đoàn nào có thể vĩnh viễn giữ được vị trí dẫn đầu của mình khi chuẩn mực công nghệ luôn biến đổi. Chính vì vậy, tập đoàn khổng lồ và thành công Microsoft luôn ở trong trạng thái bị các đối thủ mới ra đời đe dọa. Bill Gates nói rằng mục đích của ông là làm cho Microsoft đi ngược lại với qui luật trên và tiếp tục phát triển, mặc cho sự thay đổi chuẩn mực công nghệ đang diễn ra liên tiếp.
QUOTE
Mặt trời bao giờ cũng mọc ở hướng đông?

Câu trả lời là không đúng. Một số ứng viên đưa ra các ví dụ trong không gian vũ trụ. Sao Kim (Venus) và sao Thiên vương (Uranus) quay quanh trục và có chiều quay ngược với chiều quay của Trái đất. Nếu chúng ta đặt trong không gian một hành tinh tưởng tượng và không quay quanh quĩ đạo thì hoàn toàn không có hiện tượng Mặt trời mọc và lặn.

Người phỏng vấn không chấp nhận những câu trả lời tương tự như vậy và hỏi lại: “Có phải trên Trái đất bao giờ Mặt trời cũng mọc ở hướng đông?”. Câu trả lời cũng không có gì thay đổi, vẫn là không. Tại Bắc cực hoàn toàn không có hướng đông: tất cả các hướng đều chỉ về phía nam. Trong thời gian sáu tháng có Mặt trời, Mặt trời luôn mọc và lặn từ hướng nam. Còn ở Nam cực thì ngược lại. Ở đây các hướng đều chỉ về phương bắc.

Có thể có ích cho bạn: biết và nghĩ nhiều hơn về những gì bạn đã biết và đã nghĩ, nghĩ xa hơn những giới hạn xung quanh bạn, như thế sẽ có một con đường, dù con đường ấy không đưa bạn đến đích nhưng cũng có con đường, còn hơn không có con đường nào cả để đi.


---WILLIAM POUNDSTONE---

Có bao nhiêu người lên dây đàn dương cầm trên thế giới? Ở Manhattan, bạn phải giở ngẫu nhiên bao nhiêu trang trong danh bạ điện thoại để có số điện thoại cần tìm?... Trong một nền “văn hóa toán đố”, những câu hỏi như đều có lời giải. Các công ty muốn tuyển dụng đúng người tài đều đặt yếu tố sáng tạo và cách giải quyết vấn đề lên hàng đầu.



Phần 5
Vượt qua khó khăn

Những người phỏng vấn tuyển lựa người tài đánh giá rất cao những câu trả lời thông minh và độc đáo. Bạn có biết một số người khờ khạo đã cố gắng gửi đến nhà tuyển dụng những bản sơ yếu lý lịch hết sức độc đáo để mong gây được sự chú ý? Hành động đó rất hiếm khi phát huy tác dụng, nhưng trong lúc phỏng vấn, một câu trả lời tốt mang tính sáng tạo sẽ làm cho ứng viên trở nên nổi bật.

Nguyên tắc Hippocrates

Joel Spolsky - tổng giám đốc Hãng Fog Creek Software tại News York - cho rằng phương pháp tuyển nhân sự phải được xây dựng nhằm phát hiện được ra hai loại người: thứ nhất là loại người thông minh nhưng không thành công, thứ hai là thành công nhưng không thông minh. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực cạnh tranh cao cần phải tránh tuyển dụng cả hai dạng người này.

“Những người thông minh nhưng không thành công thường có bằng cấp tiến sĩ, làm việc tại các công ty lớn, nhưng ở đó chẳng ai biết đến tên tuổi của anh ta chỉ bởi họ là những người hoàn toàn không thực tế” - Spolsky giải thích - Còn những người thành công nhưng không thông minh thường dễ phạm phải những sai lầm ngu ngốc để rồi sau đó người khác sẽ phải chỉnh sửa sai lầm cho họ”. Hai loại người này rất dễ lầm với loại người thứ ba rất cần cho các công ty: đó là vừa thông minh vừa thành công.

Sau khi động não để tìm cách giải quyết một vấn đề phức tạp, ứng viên tham gia một cuộc tuyển lựa người tài cần phải lựa chọn được một ý tưởng tối ưu. Đây cũng chính là lúc có thể kiểm tra óc phán đoán của ứng viên. Tiếp đó ứng viên phải đi sâu vào một số tiểu tiết cũng như phát triển các lập luận cần thiết để biến ý tưởng đã chọn thành câu trả lời hoàn chỉnh. Điều quan trọng là phải bổ khuyết được tất cả các chỗ yếu và giải quyết được tất cả các mâu thuẫn chính. “Những ứng viên xuất sắc thường có khả năng tiến lên phía trước, thậm chí ngay cả khi bạn cố tình cản trở họ” - Spolsky nói.

Người ta thường nhắc đến “vở kịch ba màn” của Microsoft trong quá trình tuyển lựa nhân viên. Màn thứ nhất chỉ đơn thuần là việc phỏng vấn tuyển lựa sơ bộ qua điện thoại. Trong cuộc phỏng vấn mở màn này, ứng viên thường gặp phải những câu hỏi truyền thống, còn những bài toán đố rất ít khi được áp dụng ở đây.

Những câu trả lời qua điện thoại của ứng viên sẽ giúp nhà tuyển dụng ra quyết định liệu có nên mời ứng viên đến trụ sở chính của Microsoft ở Redmond (bang Washington, Mỹ) hoặc ở những nơi khác để tham dự các màn tiếp theo của “vở kịch” hay không. “Vở kịch” phỏng vấn tiếp theo thường kéo dài cả một ngày. Trong quá trình phỏng vấn, nhân viên tuyển nhân sự của Microsoft thường bí mật trao đổi ý kiến với nhau thông qua thư điện tử hoặc các cách khác mà họ qui ước với nhau.

Nguyên tắc chủ yếu của Microsoft trong khâu phỏng vấn tuyển dụng rất giống với nguyên tắc nổi tiếng của Hippocrates là “không gây hại”. Mục đích trước hết của tập đoàn là ngăn chặn mọi khả năng tuyển nhầm phải những ứng viên tồi, thậm chí nếu điều này đôi khi có thể đồng nghĩa với việc để vuột mất những ứng viên phù hợp. Chính vì nguyên tắc này mà rất ít khi nhân viên Microsoft phải thôi việc. “Món quà tốt nhất dành tặng cho các đối thủ cạnh tranh của chúng ta chính là các quyết định tuyển nhân sự sai lầm”, David Pritchard, giám đốc bộ phận tuyển dụng của Microsoft, nói.

Đối diện những “vở kịch”

Hẳn nhiên là các ứng viên khi đến dự phỏng vấn ở Microsoft đều không thể biết rằng các "màn diễn" tình huống thường xuyên xảy ra. Tình huống này cũng xuất hiện trong danh sách dài ngoằng những lời khuyên dành cho ứng viên chuẩn bị phỏng vấn ở Microsoft trên trang web của tập đoàn: nếu trong tiến trình phỏng vấn, bạn có ý nghĩ muốn đánh giá xem việc trả lời của mình diễn ra có thuận lợi hay không thì hãy cố quên nó đi.

Đừng thất vọng nếu bạn trả lời không đúng một câu hỏi nào đó, có thể cảm giác của bạn khác với sự thật. (Chuyện này vẫn thường xảy ra trong các cuộc thi, khi mà bạn cảm thấy mình đang làm sai bét nhưng thực tế lại không hẳn vậy, hoặc ngược lại). Đừng đánh mất bản thân, những ứng viên như vậy mới chính là những người mà chúng tôi cần.

Một ứng viên vốn được mô tả như là một “tay chơi” sành sỏi đã len lỏi qua được tất cả những vòng phỏng vấn sơ bộ và lọt vào cuộc phỏng vấn cuối cùng, và người phỏng vấn chính là Karen Fries. Cô gái này là một nhân vật quan trọng của Tập đoàn Microsoft, là người đã phát minh ra cái món “wizards” trong các phần mềm của Microsoft chuyên gợi ý, trợ giúp người sử dụng máy tính thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau.

Fries là một phụ nữ rất hấp dẫn. Chàng thanh niên kia khi nhìn thấy Fries lại nghĩ rằng tất cả những cuộc phỏng vấn quan trọng đã qua và đây là “phần thưởng” dành cho những câu trả lời xuất sắc, và “cô thư ký” này được cử đến chỉ để nói chuyện phiếm với anh.

Cuối cùng, trong thư điện tử gửi cho các đồng nghiệp, Fries nhận xét về ứng viên đó độc địa đến nỗi cho đến tận bây giờ nó vẫn là ví dụ điển hình ở tập đoàn này, nơi không thiếu những lời xỏ xiên, độc địa được dùng để đánh giá và nhận xét người khác. Chàng thanh niên “xuất sắc” đó đã không được nhận vào làm việc.

Rất khó tìm được lời giải đáp khôn khéo, đầy đủ cho những câu hỏi “không hợp lý lắm” dưới áp lực căng thẳng. Áp lực công kích trong cuộc họp báo vào tháng 3-1998 đã buộc chính Bill Gates phải “lớn tiếng phẫn nộ và tỏ ý khinh bỉ những người đã tỏ ra nghi ngờ hoạt động kinh doanh của ông”.

Tờ Washington Post thuật lại: “Ông đã bỏ qua không trả lời một câu hỏi mà ông cho là “không công bằng” và một câu khác vì “không trung thực”. “Thôi đủ rồi!” - ông sốt ruột ngắt lời một nhà báo. “Cho tôi thở một chút!”, giây lát sau ông lại nói với một nhà báo khác”. Rất nhiều ứng viên có cảm giác y như thế khi tham gia cuộc phỏng vấn tuyển dụng. Dù thích hay không bạn vẫn có thể sẽ phải đối diện với những câu hỏi đầy mưu mẹo và không dễ trả lời ở lần phỏng vấn tiếp theo.

Có bao nhiêu trạm xăng ở nước Mỹ? Câu hỏi này quả là khó nhưng không phải là không thể trả lời. Đáp số của bài toán này giúp để tính số lượng trạm xăng ở Mỹ và ở những nơi khác. Trung bình mỗi người dân Mỹ có một ôtô? Không đúng. Hai người một cái? Con số này chắc gần đúng hơn.

Vậy nếu dân số Mỹ là 300 triệu, tức nước Mỹ có khoảng 150 triệu ôtô, trung bình một ôtô cần phải đổ xăng một lần trong tuần. Vì vậy, trong một tuần tất cả các trạm xăng phải phục vụ số ôtô đúng bằng tổng số xe trong nước. Số giờ trong một tuần là 24x7, nhưng không phải tất cả các trạm xăng đều làm việc 24 giờ trong tuần.

Giả sử trung bình một trạm xăng làm việc 100 giờ/tuần, nếu đổ xăng cho một xe mất 6 phút tức mỗi máy bơm ở trạm xăng trong một giờ có thể phục vụ 10 ôtô. Những trạm xăng lớn ở những chỗ đông dân có thể đặt nhiều máy bơm và ngược lại có những trạm xăng rất ít khách, giả sử trung bình mỗi trạm xăng một giờ phục vụ 10 ôtô. Vậy trung bình một tuần, một trạm phục vụ 100x10 lần, hay 1.000 ôtô. Có nghĩa số trạm xăng ở nước Mỹ bằng 150 triệu/1.000 = 150.000. Kết quả của sự đánh giá này gần sát với sự thật.

Joel Spolsky động viên những người có khả năng rằng nhà tuyển dụng luôn biết cách khuyến khích bạn vượt qua những khó khăn, vấn đề là bạn có kích hoạt bộ não của bạn sáng tạo hay không.

QUOTE
Vậy bạn phải chuẩn bị như thế nào để vượt qua những trắc nghiệm “nát óc”? Sau đây là những gợi ý cho bạn:

- Trước tiên hãy xác định xem người ta đang mong đợi câu trả lời thuộc dạng nào (độc thoại hay đối thoại).
- Lời giải đầu tiên hiện ra trong đầu thường sai.
- Những câu hỏi dài, phức tạp thường có câu trả lời đơn giản.
- Những câu hỏi đơn giản luôn đòi hỏi câu trả lời phức tạp.
- Nếu bị rơi vào tình trạng bế tắc, hãy thử liệt kê tất cả các giả thiết bạn có được. Hãy suy nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra khi bạn lần lượt loại bỏ từng giả thiết đó.


---WILLIAM POUNDSTONE---

“Một ngày nào đó, một công ty non trẻ và táo bạo sẽ xuất hiện, hất cẳng Microsoft ra khỏi đấu trường kinh doanh” - Bill Gates viết trong cuốn sách Kinh doanh và tốc độ tư duy như thế? Chúng ta phải làm sao?




link download English PDF
Làm sao dịch chuyển núi Phú Sĩ pdf


Posted by phanblogs at 12:41 Không có nhận xét nào:
Labels: How Would You Move Mount Fuji

7.7.08

Bảng mã Alt code

Bảng mã Alt code

Bảng mã Alt code
Bảng mã Alt code




Posted by phanblogs at 05:30 Không có nhận xét nào:
Labels: Alt code, Bảng mã Alt code, Keyboard shortcuts, TinHoc
Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn Trang chủ

Bài đọc nhiều

  • Chỉnh sửa văn bản trực tiếp trong trang web
  • Cường nhí, Long bo, Tùng chùa, Lê thanh, gấu lé
  • Các câu hỏi về vi phạm bản quyền trên Youtube
  • Ảo Tưởng Trong AI. AI Hallucination
  • THE SYMPATHIZER (CẢM TÌNH VIÊN) TÁC GIẢ NGUYỄN THANH VIỆT
  • Thế giới Hồi giáo xưa và nay tác giả Bùi Văn Chấn
  • LỤC ĐẠI CHÂN KINH TỲ KHEO GIÁC NGUYÊN
  • Audiobook Lược Sử Tôn Giáo của Richard Holloway
  • ÁI #TANHA
  • TRÙNG TRÙNG DUYÊN KHỞI

Liên Kết

  • Facebook.com/Phanblogs
  • Googleadsfreelancer.wordpress.com
  • Halamp.vn
  • Instagram.com/Phanblogs
  • PhanblogsYouTube

Lưu Trữ Blog

  • ►  2025 (5)
    • ►  5 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  4 (1)
      • ►  17 (1)
    • ►  2 (2)
      • ►  4 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  1 (1)
      • ►  21 (1)
  • ►  2024 (71)
    • ►  12 (3)
      • ►  10 (2)
      • ►  9 (1)
    • ►  10 (3)
      • ►  21 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  8 (1)
    • ►  9 (3)
      • ►  9 (1)
      • ►  8 (2)
    • ►  8 (5)
      • ►  30 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  20 (2)
      • ►  19 (1)
    • ►  7 (1)
      • ►  7 (1)
    • ►  6 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  5 (7)
      • ►  29 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  4 (11)
      • ►  30 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  3 (13)
      • ►  31 (1)
      • ►  28 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  20 (2)
      • ►  19 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  2 (11)
      • ►  27 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  1 (13)
      • ►  30 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (2)
      • ►  10 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  3 (1)
  • ►  2023 (135)
    • ►  12 (9)
      • ►  30 (1)
      • ►  28 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  24 (2)
      • ►  23 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  21 (2)
    • ►  11 (5)
      • ►  9 (2)
      • ►  7 (1)
      • ►  6 (2)
    • ►  10 (3)
      • ►  19 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  9 (17)
      • ►  29 (2)
      • ►  27 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  21 (2)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  2 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  8 (12)
      • ►  29 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  7 (13)
      • ►  31 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (2)
      • ►  13 (2)
      • ►  11 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  6 (11)
      • ►  29 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  20 (2)
      • ►  18 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  5 (13)
      • ►  31 (1)
      • ►  29 (2)
      • ►  28 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  4 (17)
      • ►  30 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  19 (2)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  11 (2)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  3 (4)
      • ►  1 (1)
    • ►  3 (2)
      • ►  31 (1)
      • ►  28 (1)
    • ►  2 (18)
      • ►  27 (2)
      • ►  26 (1)
      • ►  25 (2)
      • ►  23 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  5 (2)
      • ►  3 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  1 (15)
      • ►  30 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  4 (2)
      • ►  1 (1)
  • ►  2022 (134)
    • ►  12 (12)
      • ►  31 (1)
      • ►  28 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  4 (2)
      • ►  1 (1)
    • ►  11 (16)
      • ►  29 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  15 (2)
      • ►  14 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  6 (2)
      • ►  5 (1)
    • ►  10 (10)
      • ►  31 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  9 (12)
      • ►  29 (1)
      • ►  28 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  4 (2)
      • ►  1 (1)
    • ►  8 (9)
      • ►  29 (1)
      • ►  28 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (2)
      • ►  9 (1)
    • ►  7 (6)
      • ►  17 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  6 (11)
      • ►  29 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  4 (2)
      • ►  1 (1)
    • ►  5 (10)
      • ►  31 (1)
      • ►  29 (3)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  4 (10)
      • ►  30 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  6 (2)
    • ►  3 (13)
      • ►  31 (1)
      • ►  30 (4)
      • ►  24 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  10 (2)
      • ►  8 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  2 (7)
      • ►  27 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  15 (1)
    • ►  1 (18)
      • ►  31 (1)
      • ►  30 (1)
      • ►  28 (2)
      • ►  20 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  15 (10)
      • ►  8 (1)
      • ►  6 (1)
  • ►  2021 (143)
    • ►  12 (17)
      • ►  31 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  2 (15)
    • ►  11 (2)
      • ►  24 (1)
      • ►  21 (1)
    • ►  10 (15)
      • ►  23 (6)
      • ►  21 (1)
      • ►  10 (7)
      • ►  5 (1)
    • ►  9 (23)
      • ►  29 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  22 (2)
      • ►  15 (15)
      • ►  14 (3)
      • ►  2 (1)
    • ►  8 (13)
      • ►  20 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (2)
      • ►  16 (1)
      • ►  10 (8)
    • ►  7 (14)
      • ►  19 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  3 (12)
    • ►  6 (5)
      • ►  7 (4)
      • ►  3 (1)
    • ►  5 (21)
      • ►  31 (4)
      • ►  30 (8)
      • ►  27 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  15 (2)
      • ►  2 (5)
    • ►  4 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  3 (16)
      • ►  30 (9)
      • ►  21 (4)
      • ►  18 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (1)
    • ►  2 (11)
      • ►  28 (5)
      • ►  15 (1)
      • ►  3 (5)
    • ►  1 (5)
      • ►  13 (1)
      • ►  7 (3)
      • ►  1 (1)
  • ►  2020 (51)
    • ►  12 (12)
      • ►  30 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  27 (3)
      • ►  26 (1)
      • ►  24 (3)
      • ►  18 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  7 (1)
    • ►  11 (10)
      • ►  30 (1)
      • ►  28 (2)
      • ►  21 (1)
      • ►  8 (5)
      • ►  2 (1)
    • ►  10 (5)
      • ►  16 (2)
      • ►  15 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  9 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  8 (5)
      • ►  26 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (2)
      • ►  2 (1)
    • ►  7 (5)
      • ►  30 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  28 (2)
      • ►  17 (1)
    • ►  6 (2)
      • ►  1 (2)
    • ►  5 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  4 (5)
      • ►  28 (4)
      • ►  4 (1)
    • ►  3 (2)
      • ►  10 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  1 (3)
      • ►  16 (2)
      • ►  4 (1)
  • ►  2019 (59)
    • ►  12 (5)
      • ►  26 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  11 (11)
      • ►  25 (2)
      • ►  22 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  11 (4)
      • ►  4 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  10 (20)
      • ►  30 (1)
      • ►  29 (2)
      • ►  23 (5)
      • ►  22 (2)
      • ►  14 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (2)
      • ►  7 (3)
      • ►  5 (3)
    • ►  8 (2)
      • ►  22 (1)
      • ►  8 (1)
    • ►  7 (2)
      • ►  3 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  6 (5)
      • ►  19 (2)
      • ►  13 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  5 (4)
      • ►  26 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  9 (2)
    • ►  4 (3)
      • ►  28 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  3 (1)
      • ►  20 (1)
    • ►  2 (4)
      • ►  25 (2)
      • ►  15 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  1 (2)
      • ►  30 (2)
  • ►  2018 (74)
    • ►  12 (7)
      • ►  28 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  11 (4)
      • ►  22 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  10 (6)
      • ►  30 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  13 (2)
      • ►  11 (1)
    • ►  9 (2)
      • ►  19 (1)
      • ►  11 (1)
    • ►  8 (3)
      • ►  29 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  7 (4)
      • ►  24 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  6 (1)
      • ►  11 (1)
    • ►  5 (7)
      • ►  29 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  6 (2)
      • ►  5 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  4 (8)
      • ►  30 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  3 (9)
      • ►  29 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  2 (13)
      • ►  22 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  14 (4)
      • ►  8 (1)
      • ►  6 (3)
      • ►  5 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  1 (10)
      • ►  30 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  2 (1)
  • ►  2017 (69)
    • ►  12 (6)
      • ►  29 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  20 (3)
      • ►  8 (1)
    • ►  11 (6)
      • ►  29 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  10 (2)
      • ►  3 (1)
    • ►  10 (6)
      • ►  27 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  9 (2)
      • ►  3 (1)
    • ►  9 (7)
      • ►  25 (2)
      • ►  21 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  8 (9)
      • ►  25 (1)
      • ►  21 (2)
      • ►  15 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  7 (4)
      • ►  27 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  6 (3)
      • ►  25 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  5 (8)
      • ►  29 (2)
      • ►  21 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  15 (2)
      • ►  6 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  4 (4)
      • ►  27 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  3 (8)
      • ►  26 (1)
      • ►  22 (2)
      • ►  20 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  5 (2)
      • ►  1 (1)
    • ►  2 (3)
      • ►  23 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  1 (5)
      • ►  28 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  4 (2)
  • ►  2016 (63)
    • ►  12 (5)
      • ►  23 (1)
      • ►  17 (3)
      • ►  15 (1)
    • ►  11 (6)
      • ►  28 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  5 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  10 (9)
      • ►  31 (1)
      • ►  28 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  20 (2)
      • ►  17 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  9 (5)
      • ►  28 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  8 (11)
      • ►  29 (3)
      • ►  22 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (2)
      • ►  12 (2)
      • ►  10 (1)
    • ►  7 (9)
      • ►  28 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  8 (3)
      • ►  6 (1)
    • ►  6 (4)
      • ►  30 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  5 (4)
      • ►  31 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  14 (1)
    • ►  4 (2)
      • ►  25 (1)
      • ►  6 (1)
    • ►  3 (2)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
    • ►  2 (1)
      • ►  14 (1)
    • ►  1 (5)
      • ►  26 (1)
      • ►  24 (2)
      • ►  8 (1)
      • ►  1 (1)
  • ►  2015 (53)
    • ►  12 (6)
      • ►  31 (1)
      • ►  30 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  11 (5)
      • ►  29 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  10 (12)
      • ►  30 (2)
      • ►  27 (1)
      • ►  25 (2)
      • ►  22 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  5 (3)
    • ►  9 (2)
      • ►  20 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  8 (3)
      • ►  2 (3)
    • ►  7 (4)
      • ►  23 (1)
      • ►  10 (3)
    • ►  6 (5)
      • ►  30 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  5 (1)
      • ►  16 (1)
    • ►  4 (1)
      • ►  14 (1)
    • ►  3 (7)
      • ►  26 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  2 (4)
      • ►  12 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  1 (3)
      • ►  29 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  18 (1)
  • ►  2014 (17)
    • ►  12 (1)
      • ►  24 (1)
    • ►  10 (1)
      • ►  13 (1)
    • ►  9 (5)
      • ►  29 (1)
      • ►  21 (3)
      • ►  17 (1)
    • ►  8 (1)
      • ►  8 (1)
    • ►  6 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  5 (2)
      • ►  21 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  3 (1)
      • ►  20 (1)
    • ►  2 (1)
      • ►  17 (1)
    • ►  1 (4)
      • ►  21 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  11 (1)
  • ►  2013 (27)
    • ►  12 (2)
      • ►  22 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  10 (1)
      • ►  11 (1)
    • ►  8 (4)
      • ►  30 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  4 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  7 (3)
      • ►  29 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  6 (4)
      • ►  22 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  6 (1)
    • ►  5 (6)
      • ►  31 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  3 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  4 (5)
      • ►  25 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  14 (2)
      • ►  11 (1)
    • ►  3 (2)
      • ►  17 (1)
      • ►  4 (1)
  • ►  2012 (33)
    • ►  12 (4)
      • ►  21 (1)
      • ►  16 (2)
      • ►  4 (1)
    • ►  11 (4)
      • ►  18 (4)
    • ►  10 (2)
      • ►  29 (1)
      • ►  26 (1)
    • ►  9 (2)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  7 (2)
      • ►  30 (1)
      • ►  18 (1)
    • ►  6 (1)
      • ►  22 (1)
    • ►  5 (6)
      • ►  29 (2)
      • ►  23 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  4 (4)
      • ►  21 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  8 (2)
    • ►  3 (2)
      • ►  9 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  2 (4)
      • ►  25 (1)
      • ►  10 (1)
      • ►  2 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  1 (2)
      • ►  31 (1)
      • ►  6 (1)
  • ►  2011 (52)
    • ►  12 (6)
      • ►  30 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  23 (2)
      • ►  19 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  11 (3)
      • ►  7 (2)
      • ►  6 (1)
    • ►  10 (5)
      • ►  28 (1)
      • ►  26 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  9 (6)
      • ►  22 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  8 (1)
      • ►  6 (1)
    • ►  8 (4)
      • ►  25 (2)
      • ►  20 (1)
      • ►  13 (1)
    • ►  7 (3)
      • ►  21 (2)
      • ►  1 (1)
    • ►  6 (2)
      • ►  10 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  5 (7)
      • ►  31 (1)
      • ►  19 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  10 (3)
    • ►  4 (2)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  3 (5)
      • ►  19 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  6 (2)
    • ►  2 (4)
      • ►  28 (1)
      • ►  25 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  1 (5)
      • ►  21 (2)
      • ►  18 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  5 (1)
  • ►  2010 (30)
    • ►  12 (2)
      • ►  29 (1)
      • ►  6 (1)
    • ►  11 (4)
      • ►  18 (1)
      • ►  12 (1)
      • ►  11 (1)
      • ►  5 (1)
    • ►  10 (1)
      • ►  26 (1)
    • ►  9 (2)
      • ►  20 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  8 (2)
      • ►  23 (1)
      • ►  19 (1)
    • ►  5 (7)
      • ►  30 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  9 (4)
      • ►  4 (1)
    • ►  3 (1)
      • ►  19 (1)
    • ►  2 (6)
      • ►  25 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  3 (1)
    • ►  1 (5)
      • ►  23 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  8 (2)
      • ►  7 (1)
  • ►  2009 (48)
    • ►  12 (3)
      • ►  31 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  20 (1)
    • ►  10 (7)
      • ►  31 (1)
      • ►  29 (1)
      • ►  27 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  2 (1)
      • ►  1 (1)
    • ►  9 (4)
      • ►  21 (1)
      • ►  20 (1)
      • ►  14 (1)
      • ►  7 (1)
    • ►  8 (4)
      • ►  31 (1)
      • ►  16 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  7 (1)
    • ►  7 (4)
      • ►  28 (1)
      • ►  18 (1)
      • ►  13 (1)
      • ►  4 (1)
    • ►  6 (6)
      • ►  23 (1)
      • ►  15 (1)
      • ►  12 (2)
      • ►  11 (1)
      • ►  10 (1)
    • ►  5 (6)
      • ►  20 (1)
      • ►  17 (1)
      • ►  6 (2)
      • ►  2 (2)
    • ►  4 (4)
      • ►  29 (2)
      • ►  26 (1)
      • ►  22 (1)
    • ►  3 (3)
      • ►  20 (2)
      • ►  6 (1)
    • ►  2 (2)
      • ►  22 (1)
      • ►  7 (1)
    • ►  1 (5)
      • ►  29 (1)
      • ►  24 (1)
      • ►  23 (1)
      • ►  9 (1)
      • ►  1 (1)
  • ▼  2008 (26)
    • ►  11 (2)
      • ►  22 (1)
      • ►  11 (1)
    • ►  10 (3)
      • ►  20 (1)
      • ►  6 (1)
      • ►  2 (1)
    • ►  9 (1)
      • ►  12 (1)
    • ►  8 (1)
      • ►  8 (1)
    • ▼  7 (4)
      • ▼  22 (1)
        • Cha giàu cha nghèo Tác giả Robert Kiyosaki và Shar...
      • ►  14 (1)
        • Chân dung một Tester
      • ►  13 (1)
        • How Would You Move Mount Fuji
      • ►  7 (1)
        • Bảng mã Alt code
    • ►  6 (6)
      • ►  15 (2)
      • ►  14 (1)
      • ►  7 (1)
      • ►  6 (2)
    • ►  5 (8)
      • ►  27 (1)
      • ►  22 (1)
      • ►  21 (1)
      • ►  19 (2)
      • ►  6 (1)
      • ►  1 (2)
    • ►  4 (1)
      • ►  13 (1)
Copyright © 2008-2024 by Phanblogs. Được tạo bởi Blogger.