Search

30.3.21

Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp

Phanblogs Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp Theo các nhà khảo cổ thì Ai Cập là một trong những nền văn minh cổ nhất của nhân loại. Mặc dù ngày nay người ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc dân Ai Cập nhưng khoảng hơn bảy ngàn năm trước, người Ai Cập đã di cư đến vùng đồng bằng quanh lưu vực sông Nile rồi định cư tại đó. Truyền thuyết Ai Cập nói rằng tổ tiên của họ xuất phát từ một đại lục rất xa, nơi có nền văn minh rất cao nhưng vì biết nơi đó sẽ gặp nạn hồng thủy nên một số người đã đóng thuyền di cư đến vùng này. Có thể vì xuất thân từ một nền văn minh cao nên từ bảy ngàn năm trước, người Ai Cập đã có chữ viết, biết sử dụng toán học để xác định vị trí các tinh tú và xây cất những kiến trúc hùng vĩ như thế.




Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Các nhà sử học sắp xếp lịch sử Ai Cập ra làm 6 thời đại với 30 triều đại vua Pharaoh như sau:
1. Tiền sử Thời đại (Pre-historic Period): Khoảng 7000 năm đến 5000 năm trước Công nguyên. Đây là một thời đại mơ hồ với rất nhiều huyền thoại, truyền thuyết mà phần lớn các học giả người u cho là hoang đường, huyền hoặc, không đáng tin.
2. Nguyên sử Thời đại (Early Dynasties Period): Khoảng 5000 năm đến 4000 năm trước Công nguyên. Lúc đầu Ai Cập chia làm nhiều vùng, mỗi vùng có một sứ quân cai quản cho đến khi sứ quân Menes nổi lên đánh dẹp các sứ quân khác, thống nhất Ai Cập thành một quốc gia. Menes tự xưng là Pharaoh (Người Ở Nhà To Lớn), vừa là người vừa là thần linh, có quyền hành tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Pharaoh Menes chia xã hội thành những giai cấp để dễ bề cai trị. Giai cấp thứ nhất là Pharaoh và gia đình, nắm quyền chỉ huy cai trị. Giai cấp thứ hai là giáo sĩ, phần lớn là những người có học thức cao, có nhiệm vụ làm trung gian giữa thần linh và con người. Giai cấp thứ ba là quí tộc, gồm các quan lại và quân nhân, nắm quyền giữ an ninh, trật tự trong các địa phương. Những giai cấp sau như thợ thuyền, thương buôn, công nghệ và nông dân có bổn phận phục vụ cho những giai cấp trên. Pharaoh Menes lập triều đình gồm các quan thu thuế, xử kiện, giữ sổ sách và đặc biệt ghi chép các biến cố lịch sử lên bia đá nên từ đó lịch sử Ai Cập được đời sau biết đến.
3. Cổ sử Thời đại (Old Kingdom Period): Khoảng 4000 năm đến 3000 năm trước Công nguyên. Đây là thời đại rất đặc biệt với 6 triều đại và 32 Pharaoh mà vị nào cũng cho xây cất, kiến tạo những Kim Tự Tháp, đền đài, lăng tẩm hết sức hùng vĩ. Cũng trong thời đại này, người Ai Cập bắt đầu sử dụng thuyền buồm, bánh xe, nấu thủy tinh, luyện kim và xây các đập nước, kinh đào để dẫn nước vào ruộng.
4. Trung sử Thời đại (Middle Kingdom Period): Khoảng 3000 năm đến 2000 năm trước Công nguyên. Thời đại này gồm có 7 triều đại và hơn 100 Pharaoh. Đây là giai đoạn xã hội Ai Cập suy đồi nhiều vì đa số các Pharaoh chỉ lo hưởng thụ các tiện nghi vật chất chứ ít chịu phát triển hay xây dựng. Đây cũng là giai đoạn mà nền tôn giáo cổ Ai Cập thoái hóa thành các hình thức mê tín dị đoan nên việc sử dụng tà thuật, bùa chú rất thịnh hành. Nhiều người đã gọi thời đại này là thời đại của các giáo sĩ vì quyền hành của họ vượt xa Pharaoh. Hầu hết chủ trương tôn thờ Amun (Đa thần giáo) với các nghi thức thờ cúng, tế thần và giết nô lệ để chuộc tội.
5. Tân Sử Thời đại (New Kingdom Period): Khoảng 2000 năm đến 1000 năm trước Công nguyên. Thời đại này gồm 8 triều đại và 20 Pharaoh mà người nào cũng gây chiến với các nước láng giềng. Các nhà viết sử đã đề cao thời đại này như giai đoạn huy hoàng nhất lịch sử Ai Cập với các chiến công hiển hách, các đền đài lăng tẩm được xây cất to lớn vĩ đại hơn những triều vua trước. Hầu hết những Pharaoh thời này đều là những bạo chúa khát máu, chỉ trừ một Pharaoh duy nhất bị lịch sử chê trách là nhu nhược, hèn yếu vì đã từ bỏ truyền thống cũ để cổ xướng một sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử Ai Cập. Pharaoh Akhenaten đã từ bỏ việc thờ cúng thần Amun mà chủ trương tôn thờ Aten (Độc thần giáo) hay chân lý tuyệt đối trong vũ trụ.
Trong 17 năm cai trị của ông, Ai Cập không hề gây chiến tranh mà chỉ phát triển rất mạnh về phương diện nghệ thuật, văn chương, đặc biệt là thơ phú. Các nhà khảo cổ đã gọi Akhenaten là "Pharaoh thi sĩ" vì ông đã để lại nhiều bài thơ khắc trên bia đá, thạch trụ rất đặc biệt. Sau khi Akhenaten qua đời, các vị Pharaoh đời sau lại phục hồi việc thờ cúng thần Amun và gây chiến với các nước chung quanh. Triều đại Seti mở rộng biên giới Ai Cập ra khắp bán đảo Ả Rập. Triều đại Ramses tiếp tục công cuộc xâm lăng các nước láng giềng, thu hoạch rất nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ, mang về Ai Cập để xây cất các đền đài vĩ đại chưa từng có. Tuy nhiên cuộc chiến tranh kéo dài hàng trăm năm này đã mang lại một hậu quả rất khốc hại cho người Ai Cập. Vì đa số chỉ quen chém giết, cướp bóc chứ không còn biết xây dựng cho nên khi không còn kẻ thù nào để chinh phục, họ quay ra chém giết, bóc lột và tàn sát lẫn nhau khiến xã hội Ai Cập trở nên hỗn loạn, vô trật tự, suy yếu và theo thời gian trở thành mồi ngon cho Syria và Ba Tư. Đây cũng thời đại tự chủ cuối cùng của người Ai Cập vì trong suốt 2000 năm sau, Ai Cập hoàn toàn nằm dưới ách cai trị và bảo hộ của các quốc gia khác.
6. Ngoại thuộc Thời Đại (Domination Period): Khoảng gần 1000 năm trước Công nguyên cho đến cận đại. Giai đoạn này Ai Cập mất quyền tự chủ và bị đặt dưới ách cai trị của các cường quốc khác. Lúc đầu họ bị người Syria xâm lăng, chiếm đoạt phần lớn đất đai; sau đó Ai Cập lại bị Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và cuối cùng là các cường quốc u châu như Pháp và Anh xâm chiếm, cai trị. Mặc dù trên nguyên tắc, Ai Cập vẫn được duy trì chế độ quân chủ (có vua và triều đình), nhưng suốt thời gian mấy ngàn năm, hầu hết các nhà lãnh đạo Ai Cập chỉ là những vị vua bù nhìn, vô quyền, làm tay sai cho những thế lực ngoại bang. Nền văn hóa phong phú của họ bị thay thế bằng một thứ văn hóa ngoại lai, lúc đầu chịu ảnh hưởng Ba Tư, Hy Lạp; sau bị đồng hóa với văn hóa Ả Rập. Ngay cả chữ viết của Ai Cập cũng hoàn toàn bị thay thế bằng chữ Hy Lạp và chữ Ả Rập. Đầu thế kỷ 18, tiếng Pháp trở nên ngôn ngữ chính rồi qua thế kỷ 19, tiếng Anh được sử dụng trong các văn kiện, giấy tờ và ngay cả hiến pháp quốc gia. Năm 1952, tướng Gamal Nasser truất phế hoàng đế bù nhìn Farouk, lập chế độ Cộng hòa Ai Cập và trở thành vị tổng thống đầu tiên của xứ này. Kể từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến thế kỷ 20, Ai Cập mới thực sự giành được độc lập.

NHỮNG PHARAOH SAU AKHENATEN

Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Sau khi Akhenaten qua đời, Tể tướng Smenkere lên ngôi Pharaoh nhưng ông nầy chỉ cai trị được hai năm thì chết. Người con duy nhất của ông tên Tut khi đó mới 12 tuổi, lên ngôi lấy hiệu là Tutankhamun (Tut tôn thờ Amun). Điều này cho thấy chỉ một thời gian ngắn, các giáo sĩ phái Amun đã phục hồi ảnh hưởng và thế lực với triều đình. Trước khi chết, Pharaoh Smenkere chỉ thị cho Tut phải lấy Ankhense, con gái lớn của Akhenaten làm hoàng hậu và phong cho cô này tước hiệu là Akhenseamun (Akhen tuân phục Amun). Pharaoh Tutankhamun (thường được gọi là King Tut) cũng chỉ cai trị được 6 năm thì qua đời. Vì ông chưa có con nối dõi nên ngôi vị Pharaoh được truyền cho Tể tướng Horemheb.
Pharaoh Horemheb cai trị Ai Cập được 28 năm. Ông đặt ra một nền quân chủ pháp trị rất nghiêm khắc, áp dụng kỷ luật thép cho các trai tráng trong nước. Dưới sự lãnh đạo của Horemheb, Ai Cập đã có những lực lượng quân sự hùng hậu, thiện chiến hơn những Pharaoh đời trước.
Vị chỉ huy, tướng Seti, đã dẫn quân chinh phạt khắp nơi và nổi tiếng là một trong những vị tướng khát máu nhất lịch sử Ai Cập. Seti chủ trương phải tiêu diệt các tiểu quốc quanh vùng, bắt những người này làm nô lệ cho người Ai Cập. Người Do Thái, vì sống tại Palestine gần đó, đã trở thành những nạn nhân đầu tiên. Seti để lại câu nói bất hủ: "Nếu người Do Thái được tự do, người Ai Cập không thể ngóc đầu lên được".
Sau khi Pharaoh Horemheb qua đời, Seti đã giết luôn mười hai người con của Horemheb rồi tự xưng làm Pharaoh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, một tướng lãnh đã soán ngôi Pharaoh một cách công khai, không sợ lịch sử phê phán hay thần linh trừng phạt. Việc này cũng tạo ra một tiền lệ cho những đời vua sau đó. Triều đại Seti kéo dài được ba đời thì vị hoàng đế Seti đời thứ tư bị một tướng lãnh khác là Ramses giết chết.
Triều đại Ramses kéo dài được tám đời và được các nhà chép sử coi là triều đại vẻ vang nhất lịch sử Ai Cập. Các Pharaoh này đã liên tiếp gây chiến tranh với các nước chung quanh, chiếm đoạt rất nhiều tài nguyên và nô lệ để xây cất những đền đài lăng tẩm vĩ đại, chưa từng có. (Lịch sử ghi nhận, dưới sự lãnh đạo của nhà tiên tri Moise, người Do Thái được trả tự do vào đời Ramses thứ tư - Chương Exodus trong Kinh Thánh).
Sau triều đại Ramses, xã hội Ai Cập trở nên thoái hóa, hỗn loạn, vô trật tự vì các vua chúa và tướng lãnh không ngừng tranh chấp lẫn nhau. Không một vị vua nào cai trị được quá 4 năm. Có nhiều người chỉ lên ngôi được vài tháng đã bị giết. Triều đình hỗn loạn, quan lại tham những, giới quí tộc lo bóc lột, xã hội suy đồi, kinh tế kiệt quệ, kẻ mạnh đàn áp người yếu, dân chúng đói khổ lầm than nên chỉ ít lâu sau, Ai Cập trở thành miếng mồi ngon cho người Syria.
Dưới sự cai trị của Syria, phần lớn các đền đài, lăng tẩm của vua chúa Ai Cập bị đập phá và dân Ai Cập phải cam chịu cảnh làm nô lệ cho người Syria, một giống dân mà khi xưa họ vẫn khinh là man di mọi rợ. Ít lâu sau, người Ba Tư đánh đuổi người Syria, chiếm Ai Cập và đặt xứ này dưới ách cai trị của họ trong suốt 260 năm.
Khoảng 322 năm trước Công nguyên, Hoàng đế Alexander của Hy Lạp khởi binh đánh đuổi người Ba Tư và chiếm Ai Cập. Tuy nhiên đối với các nhà chép sử Ai Cập thì đây là một cuộc giải phóng chứ không phải xâm lăng. Sở dĩ người Ai Cập có cảm tình với Hy Lạp vì Hoàng đế Alexander không những thông hiểu phong tục, tập quán của Ai Cập một cách tường tận mà còn tỏ ra tôn trọng các truyền thống văn hóa, tôn giáo của xứ này. Có lẽ Hoàng đế Alexander sở hữu một kiến thức rộng về Ai Cập vì thày dạy học của ông là hiền triết Aristotle, vốn là môn đệ của môn phái triết học do một người Ai Cập tên là Sinuhe khởi xướng. Học trò môn phái này đều là những triết gia nổi danh của Hy Lạp như Socrates, Plato, Aristotle, Pythagore, Thales, Lycurge, Solon, Jamblicus, Horedotus, Epitetus v.v…
Vì người Ai Cập xem Alexander như một nhà giải phóng xứ này khỏi ách ngoại xâm nên các giáo sĩ Ai Cập đã phong cho ông làm Pharaoh Ai Cập. Tuy nhiên chỉ ít lâu sau, Alexander lại lên đường tiếp tục công cuộc chinh phục các xứ khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Syria, A Phú Hãn và Ấn Độ. Ông ban sắc lệnh đặt Ai Cập là đất bảo hộ, cho thiết lập một chế độ quân chủ tự trị nhưng bắt các Pharaoh Ai Cập hằng năm phải triều cống Hy Lạp. Không những thế, ông vẫn để một lực lượng quân đội lớn chiếm đóng xứ này để giám sát mọi việc nên chỉ ít lâu sau, nhiều tướng lãnh Hy lạp đã trở nên Pharaoh cai trị xứ này.
Khi Hy Lạp suy vong thì La Mã trở nên một thế lực quan trọng, kiểm soát toàn vùng Địa Trung Hải và xâm lăng Ai Cập. Lúc đó trong triều đình Ai Cập đang có việc tranh chấp ngôi vị Pharaoh. Công chúa Cleopatra sử dụng nữ sắc để lung lạc Hoàng đế Ceasar của La Mã khiến ông này phong cô làm Pharaoh.
Sau khi Caesar qua đời, Hoàng đế La Mã Augustus ban sắc lệnh sáp nhập Ai Cập thành một phần của đế quốc La Mã. Một lần nữa, người Ai Cập lại nai lưng ra phục vụ các triều vua La Mã cho đến khi đế quốc La Mã suy vong thì người Ả Rập xâm chiếm Ai Cập, đặt ra chế độ Caliphs để cai trị xứ này.
Từ đó hết quốc gia này đến quốc gia khác thay phiên nhau chiếm đóng, đô hộ Ai Cập cho đến thế kỷ 20, người Ai Cập mới thực sự giành lại chủ quyền.

CHỮ VIẾT AI CẬP

Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Lịch sử Ai Cập Pharaoh và kim tự tháp
Từ 7000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã có chữ viết, một thứ chữ tượng hình rất phong phú. Các nhà khảo cổ đã tìm được những tài liệu khắc trên đá đề cập đến vị trí các tinh tú cũng như ảnh hưởng thời tiết trong việc cấy cày ghi khắc vào năm 6700 trước Công nguyên.
Khi Ai Cập bị Ba Tư, Hy Lạp và Ả Rập cai trị thì văn hóa xứ này bị pha trộn với các ảnh hưởng ngoại lai nên dần dần thoái hóa, suy đồi. Mặc dù tiếng nói còn được sử dụng trong một thời gian nhưng chữ viết Ai Cập đã bị thất truyền vào khoảng đầu thế kỷ thứ ba sau Công nguyên.
Sử gia Julius ghi nhận không một người Ai Cập nào còn đọc được chữ viết của dân tộc họ nữa mà chỉ sử dụng chữ Hy Lạp, La Mã hoặc Ả Rập. Vì thế đa số người Ai Cập không hiểu được những giòng chữ ghi khắc trong các đền đài, lăng tẩm, cổ mộ, bia đá, thạch trụ nên chẳng mấy ai biết gì về nguồn gốc cũng như gia sản văn hóa phong phú mà cha ông họ đã để lại. Có lẽ vì thế người Ai Cập đã chấp nhận văn hóa Ả Rập như văn hóa chính thức của họ và trong mấy ngàn năm dài, lịch sử và văn hóa Ai Cập chỉ là những huyền thoại mơ hồ được kể lại trong những câu chuyện truyền khẩu chốn dân gian mà thôi.
Năm 1798, Hoàng đế Napoleon đem quân xâm chiếm Ai Cập. Ông cho xây cất những pháo đài quanh vùng duyên hải để ngăn ngừa tầm hoạt động của hải quân Anh. Trong lúc xây cất pháo đài nằm cạnh hải cảng Rosetta, Trung sĩ Pháo binh Boussard đã tìm được một khối đá màu đen trên có ghi khắc 54 giòng chữ Ai Cập và một bản dịch bằng tiếng Hy Lạp phía dưới. Chính nhờ thế mà nhà khảo cứu cổ ngữ Champollion mới nghiên cứu, sắp đặt lại các mẫu tự Ai Cập và phục hồi văn tự đã thất truyền này.
Qua công trình nghiên cứu của Champollion, các nhà khảo cổ đã dựa theo đó để phiên dịch các chữ viết ghi khắc trong các đền đài, cổ mộ, thạch trụ và phục hồi các chi tiết lịch sử Ai Cập cũng như góp phần phục hưng nền văn hóa phong phú này. Các công cuộc nghiên cứu về văn hóa Ai Cập bắt đầu khoảng cuối thế kỷ 19 qua sự khai quật các ngôi cổ mộ và đến nay đã hé mở cho chúng ta thấy được một phần về nền văn minh đã bị vùi lấp dưới lớp cát sa mạc này.







21.3.21

SAṂSĀRA LÀ GÌ ?

SAṂSĀRA LÀ GÌ ?


Xin chào mừng quý vị đến với chương trình “Tìm Hiểu và Ứng Dụng Kinh Nguyên Thủy” của Hội Thiền Tánh Không Nam California. Ở đây, trong chương trình này, một trong những mục tiêu nhắm tới là khai triển và khảo sát sâu sắc một số khái niệm căn bản về Phật học. Trong khi tìm hiểu những khái niệm này, chúng ta không nhắm tới số lượng mà chỉ nhắm tới độ sâu và sự thấu triệt các khái niệm đó tới tận gốc. Thật ra, may mắn thay, những khái niệm căn bản trong đạo Phật cần hiểu cho thật thấu đáo cũng không nhiều. Vì thế, những khái niệm được chọn lựa trong chương trình “Tìm Hiểu và Ứng Dụng Kinh Nguyên Thủy” để phân tích sâu sắc rất quan trọng. Chúng thuộc về các khái niệm căn bản của Phật Học. Vì sao? Bởi vì, trừ khi nào chúng ta nắm vững những khái niệm này thì Phật học của chúng ta mới được đặt trên một nền tảng căn bản vững chắc, và từ nền tảng đó thì quý vị có thể đi thẳng vào kinh văn Nam Truyền (Nikaya) một cách dễ dàng không cần người môi giới thông dịch và diển giải. Bài hôm nay, chủ đề của chúng ta sẽ đi sâu vào để thấu triệt là khái niệm “Saṃsāra”.

Saṃsāra là tiếng Pāli, khi qua tiếng Việt Nam, quý Thầy dịch là “sanh tử luân hồi”. Tại sao chủ đề Saṃsāra này được coi là khái niệm căn bản? Thuật ngữ này mang ý nghĩa gì? Tại sao Đức Phật lại lựa Saṃsāra để cho chúng ta biết là chúng ta đang đâu?

SAṂSĀRA LÀ GÌ ?

Trước tiên, chúng ta hãy cùng nhau khảo sát ví dụ này:

Ví dụ như quý vị muốn đi tới nơi nào: chẳng hạn như đi từ Los Angeles tới San Francisco. Khi chúng ta đi từ A tới B thì quý vị cần phải biết rõ: Thứ nhất là mình đang ở đâu? Thứ hai là phải viết rõ nơi mình muốn tới. Thứ ba là phải có bản đồ về lộ trình đi từ A tới B. Thứ tư là phải có phương tiện di chuyển thích hợp.

Như vậy, điều kiện quan trọng là nếu như bị đi lạc, mà không biết đường, khi hỏi người khác, thì việc đầu tiên người biết đường họ sẽ hỏi quý vị là: “Anh/chị đang ở đâu?” Việc biết rõ ràng chúng ta đang ở đâu rất là quan trọng! Chúng ta phải biết mình đang ở vị trí nào thì từ đó mới có thể định hướng tìm bản đồ, và có thể đi tới nơi được. Tương tự như vậy, đức Phật dùng chữ Saṃsāra để chỉ các trạng thái đang là của chúng sanh; tức là vị trí của tất cả chúng ta đang ở đây: Saṃsāra.

Như vậy, câu hỏi hết sức quan trọng là: “Vì sao chữ “Saṃsāra” này được Phật chọn để chỉ có trạng thái đang là của chúng ta? Nhằm mục đích gì? Đó là điều chúng ta sẽ cùng nhau khảo sát bữa nay.

Trước hết, mục đích của việc thấu hiểu trạng thái đang là của mình để làm chi? Xin trả lời ngắn gọn trước: “Để thấy rằng nó rất là bi đát!”


Nếu thực sự thấu hiểu Trạng thái Saṃsāra rất là bi đát thì nhờ vậy thì lòng mong muốn giải thoát của mình mới khởi lên. Bởi vì, trong một bài kinh khác tên là Kinh “Tất Cả Pháp Lấy Căn Bản Nơi Thế Tôn”, Phật dạy rằng: “Tất cả pháp lấy dục làm căn bản.” Dục ở đây là lòng khát khao muốn hướng mục đích. Đó là kết quả của trí tuệ thấy rõ trạng thái Saṃsāra mình đang ở nó rất là cực kỳ bi đát. Thì chính lúc đó mới có cơ hội để mình khởi lên lòng ham muốn thoát khỏi sự hiểm nguy này. Nếu không nhận rõ trạng thái bi đát thì sẽ nói: “Ồ! cảnh trần gian này quá tươi đẹp!” Và như vậy là ước mong muốn giải thoát nó không thể khởi lên được. Một khi mong muốn giải thoát khỏi chỗ này không có, thì chúng ta sẽ ở trong đây mãi mãi thôi. Như vậy, điều quan trọng mà chúng ta hy vọng bài này có thể đạt tới, mục đích bài này muốn nhắm tới là: Sau khi hiểu thuật ngữ Saṃsāra là gì rồi thì mình đối chiếu lại. Mình tự mình nhìn lại, kiểm chứng lại: Thấy rõ: “Sự thật này là đúng như vậy, tức là sự nguy hiễm của Saṃsāra”. Nhờ vậy, nó sẽ làm tăng trưởng được tinh tấn lực và tín lực của mình đối với Phật pháp.

Trở lại một chút với câu chuyện của Đức Phật, có lẽ ai cũng biết rồi, ngài tự mình sống trong Saṃsāra, và sớm nhận ra Saṃsāra này nó nó có bốn biểu hiện là: sinh, lão, bệnh, tử. Và nếu đã rơi vào trong vòng xoáy này thì thoát ra được là việc cực kỳ khó khăn. Đức Phật là người không chấp nhận trạng thái của Saṃsāra cho nên trong Ngài phát lên lòng quyết tâm dõng mãnh đi tìm một phương pháp nào đó để chấm dứt trạng thái của Saṃsāra cùng những chi phối trong Saṃsāra tức là già, bệnh, chết. Nhờ lòng quyết tâm dũng mãnh đó, đức Phật tìm ra được một con đường thoát ra khỏi Saṃsāra. Nhờ vậy, toàn thể giáo pháp của đức Phật được Ngài khéo truyền lại cho chúng ta, tức là con đường hay phương pháp thoát ra khỏi Saṃsāra.

Cho nên Phật tử mấy ngàn năm sau muốn đi theo chân Phật thì điều kiện tiên quyết là phải sớm nhận ra trạng thái Saṃsāra nó bi thảm như thế nào. Ngày xưa Đức Phật là người đã trí tuệ cho nên ngài không cần ai chỉ cho ngài. Ngài tự thấy trạng thái sanh, lão, bệnh, tử là trạng thái không thể chấp nhận được. Ngài không phải vì kinh hãi mà ngài chỉ đơn thuần không chấp nhận nó. Ví thế, Ngài phát lòng quyết tâm dõng mãnh đi tìm con đường giải thoát.

Thật sự bản chất của con đường chỉ là lộ trình dẫn từ điểm A đến điểm B. Ở đây đối với con đường giải thoát thì: điểm A là Saṃsāra và điểm B là Nibbana tức là niết bàn. Phật ra đời chỉ là chỉ con đường này, chỉ phương pháp để đi từ Saṃsāra tới Nibbana mà thôi. Đó là nguyên nhân của đức Phật ra đời, rốt ráo chỉ là như vậy.

Với trí tuệ Chánh Đẳng Giác như vậy, khi Đức Phật thấy cần thiết lựa một thuật ngữ để mô tả trạng thái đang là của chúng sanh thì đương nhiên là Ngài phải khéo lựa từ. Và Ngài đã lựa chữ Saṃsāra để mô tả trạng thái đó.

Như vậy, muốn hiểu trạng thái của mình là như thế nào thì mình phải coi nghĩa đen trước khi Đức Phật mang vô Giáo Pháp để giảng dạy thì Saṃsāra mang ý nghĩa gì? Đây là câu hỏi quan trọng cần thẩm sát cẩn trọng. Chữ Saṃsāra trong tiếng Pāli là “vòng nước xoáy.” Đó chính là nghĩa đen của trước khi đi vào Giáo Pháp.

Bây giờ chúng ta thử hình dung hình ảnh vòng nước xoáy này ở trong đầu để mình cùng tư duy, thẩm sát cùng nhau. Bây giờ, thử tưởng tượng trong một biển nước lớn với một khối nước khổng lồ có một vòng xoáy và chúng ta không biết bơi, nhưng chúng ta bị lọt vào vòng xoáy đó và nó xoay liên tu bất tận. Như vậy thử hỏi trạng thái của người bị rơi vào vòng nước xoáy đó có cảm thọ như thế nào? Ở mức độ căn bản thì chỉ có 3 cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ. Nếu như chúng ta bị lọt vào vòng nước xoáy thì cảm thọ chúng ta là cảm thọ gì? Khổ, lạc hay là bất lạc bất khổ? Đương nhiên câu trả lời phải là trạng thái khổ.

Nếu cứ tưởng tượng một vòng như vậy là một kiếp và khi lọt vô đó thì nó xoắn như vậy bao nhiêu vòng là bấy nhiều kiếp sống. Một người không biết bơi mà rơi vào vòng nước xoáy thì tâm thức của người đó sẽ bị cảm thọ khổ, tâm thức sẽ hốt hoảng và hoang mang. Đa phần chúng ta qua mỗi vòng xoay bị sanh lão bệnh tử rồi lại sanh lão bệnh tử. Mỗi một lần chúng ta đi một chu kỳ như vậy thì ở giữa 2 chu kỳ, ký ức bị xóa sạch bởi vì chúng ta không có thiên nhãn minh, không nhìn thấy được rằng mình đã bị sanh, sanh, tử, tử muôn lượng kiếp.

Nói chung là hầu hết chúng ta đều “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” và thường chấp nhận một cách bạc nhược, đầu hàng vô điều kiện đối với trạng thái sanh tử luân hồi của chúng ta. Đại đa số tất cả chúng ta đều bị rơi vào tình trạng như vậy cả.

Tóm lại, điều chúng ta nhận thấy là trạng thái sinh tử luân hồi này của chúng ta - ở mức độ vĩ mô - thì nó là xoắn giữa sanh-tử rồi lại sanh-tử vô lượng kiếp. Chữ vô lượng kiếp này có vài ví dụ trong Kinh xin kể ra để chúng ta hình dung thử coi nói vô lượng là cở nào? Ví dụ thứ nhất: “nước mắt mà chúng ta đã đổ ra trong kiếp sống này và trong suốt những kiếp sống khác còn nhiều hơn cả biển ở ngoài đại dương”. Bây giờ chúng ta thử nghiệm xem: một kiếp sống này, bao nhiêu chuyện buồn mình khóc đổ ra nước mắt chắc được một thùng phi là cùng, vậy thì bao nhiêu kiếp cho đong đầy cả biển Thái Bình Dương? Thử hình dung xem chúng ta chúng ta bị giam cầm ở trong Saṃsāra này bao lâu rồi? Đó là một ví dụ khiến cho chúng ta nếu mà tư duy phải nên kinh hãi. Ví dụ thứ hai là khi các nhà chú giả họ giải thích thuật ngữ “A-tăng-kỳ kiếp”. Chữ “A-tăng-kỳ kiếp” này được giải thích như thế này: một A-tăng-kỳ kiếp là 1 nhân 10 lũy thừa 140 kiếp! Tức là con số 1 đi đầu, sau đó có 140 con số không phía sau (chín số 0 theo sau đã là một tỷ). Như vậy, một A tăng kỳ kiếp là một nhân 10 lũy thừa 140 kiếp mà không phải là kiếp nhân sinh của chúng ta mà là kiếp của trái đất. Khoa học nói rằng trái đất này đã có tuổi thọ cở từ 10 tỉ năm. Bây giờ chúng ta đã sống qua được 5 tỷ năm của nó rồi. Thấy như vậy thì thời gian A-tăng-kỳ kiếp này, quý vị hình dung là một con số rất là lớn. Và chúng ta bị sanh tử luân hồi trong suốt khoảng thời gian đó. Còn nhiều ví dụ nữa, nhưng cũng không cần thiết liệt kê ra hết ở đây làm gì. Hai ví dụ trên cũng vừa đủ để chúng ta thấy rằng ở trạng thái mà sinh tử luân hồi của chúng ta là rất lâu xa.

Trong bài Kinh Biển, Tương Ưng Sáu Xứ, Đức Phật dạy như thế này:


“Biển, biển”, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu nói như vậy. Cái ấy, này các Tỷ-kheo, không phải là biển trong giới luật các bậc Thánh. Cái ấy (của kẻ phàm phu), này các Tỷ-kheo, là một khối nước lớn, là một dòng nước lớn. Con mắt là biển của người, tốc độ của nó làm bằng các sắc. Ai điều phục được tốc độ làm bằng các sắc ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là Bà-la-môn đã vượt khỏi biển mắt, với những làn sóng, nước xoáy, các loại cá mập, các loại La-sát, đến bờ bên kia và đứng trên đất liền” ---Trích Kinh Biển, Tương Ưng Sáu Xứ.

Bây giờ chúng ta phải nghiệm lại lời dạy của bài Kinh này. Đức Phật chỉ ra rằng Biển và các con sóng cùng với các dòng nước xoáy chính là 6 căn và 6 trần, tức là 12 xúc xứ trong giới và luật của bậc Thánh. Như vậy tuy rằng mình đang đứng trên cạn (theo cái nhìn của phàm phu) nhưng thực ra trong cái nhìn của Bậc Thánh thì mình đang sống trong đại dương của con mắt và các hình sắc, đại dương của âm thanh, đại dương của mùi vị, đại dương của những xúc chạm, đại dương của pháp. Kiểm nghiệm lại có phải đúng như vậy không? Chính những sắc, thanh. Hương, vị, xúc, pháp này nó cũng tạo nên một vòng xoáy; nó xoáy tâm thức mình ở trong đó. Nếu như thân này lỡ lọt vô vòng xoáy nước ở trên biển Thái Bình Dương thì nó mất tự chủ; còn thức này nếu bị rơi trong vòng xoáy của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì nó cũng bị mất tự chủ; nó cũng bị trôi dạt, nó cũng bị cuốn trôi, nó bị nhấn chìm, y chang như là thân nó bị ở trong khối nước vậy. Đó là một trạng thái bi đát cần phải nhận thức rõ như vậy.

Từ ví dụ khối nước, chúng ta được đức Phật báo cho biết rằng: chúng ta đang ở trong đại dương của sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp. Đó là ví dụ rất quan trọng, cho nên chúng ta phải biết rằng vẫn có những trường hợp “chết đuối trên bờ” mà giai thoại Thiền còn gọi là “Bình Địa Lục Trầm”. “Chết đuối trên bờ” là khi tâm thức của ta không có được sự bình thản, không có i sự tự chủ, không có độc lập vì đã đánh mất tự chủ trong sự chạy theo sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp. Xin mở ngoặc nói thêm lý do là vì sao Tâm Thức chạy theo 6 trần? Bởi vì nó còn tham, sân, si. Giống như nguyên lý nam châm, khi nào từ trường thay đổi thì bất cứ vật nào còn từ tính sẽ bị lay chuyễn theo sự thay đỗi của từ trường. Quý vị thử tưởng tượng mình là những cây đinh, những cục sắc còn nhiều từ tính (dụ cho còn nhiều tham sân si). Khi từ trường (dụ cho sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp) thay đổi, thì các cây đinh, cục sắc sẽ đó sẽ bị cuốn theo. Cho đến khi nào mà chúng ta khử hết các chất từ trong người chúng ta thì giống như chúng ta trở thành một miếng plastic, không còn là cục sắc nữa, thì lúc đó sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp từ trường thay đổi thì kết cục plastic - miếng nhựa đó nó vẫn đứng yên; đó là tâm thức của vị A-la-hán. Bởi vì những thứ dụ như từ trường ở trong tâm của họ tức là ở đây là tham, sân và si đã được đoạn tận, tham ái đã được đoạn tận, cho nên sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp thay đổi, thân đó không có bị cuốn theo nữa.

Đó cũng là phương pháp tu rốt ráo qua ví dụ từ trường từ tính. Nó đưa đến nhận thức rốt ráo cốt lõi tu hành là tu bát thánh đạo để đoạn tận Tham Sân Si.

Cho nên chúng ta hiện bây giờ đang ở trong đại dương của sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp. Bất cứ lúc nào nếu như trong tâm thức của chúng ta vẫn còn nhiều tham, sân và si thì tình trạng Saṃsāra xảy ra và chúng ta mất tự chủ. Chúng ta đã mất tự chủ không phải là một sớm một chiều mà chúng ta đã đánh mất sự chủ tự chủ này 4 A-tăng-ký kiếp rồi.

Hôm nay, chúng ta thẩm sát cẩn trọng lời Phật dạy, ta tự nhìn lại mình, thì mới thấy rằng mình đang lọt vô tình huống bi đát. Nhưng mà may mắn thay: Ồ! Đã có một vị thoát ra khỏi tình huống bi đát rồi và để lại phương pháp thoát ra! Từ đó chúng ta mới nỗ lực để tìm hiểu ứng dụng Kinh Nguyên Thủy để ứng dụng các lời giáo huấn hay là bản đồ chỉ đường của vị từ phụ, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni để lại cho chúng ta có thể thoát ra khỏi được Saṃsāra này giống như là phương pháp của ngài chỉ cho mình vậy.



Như vậy, mục tiêu thứ nhất là đối chiếu nghĩa đen giờ chúng ta đã tạm xong. Bây giờ chúng ta đi sâu thêm một chút xíu nữa là chúng ta đặt câu hỏi là các nguyên lý vật lý nào tạo ra dòng nước xoáy? Vì sao dòng nước xoáy nó được hình thành?

Giờ chúng ta quay trở lại hình ảnh dòng nước xoáy trên biển hay là trên dòng song để khảo sát xem nguyên lý vật lý nào khiến cho vòng xoáy tồn tại? Chúng ta thấy rằng để một dòng nước xoáy tồn tại, nó cần phải có hai dòng chảy ngược chiều nhau. Thí dụ như một cơn gió từ hướng đông thổi qua, nó đụng với lại một con gió ngược chiều lại thì hai cơn gió nó xoắn với nhau, nó thành một vòng xoáy. Nguyên lý vật lý để tạo nên một dòng xoáy là nó phải có hai lực ngược chiều nhau, nếu chỉ có một dòng chảy thì nó không tạo nên dòng xoáy được. Nguyên lý này rất quan trọng, muốn chấm dứt Saṃsāra, thì phải nhận diện và chấm dứt một trong hai dòng đối lưu này.

Như vậy trên phương tâm thức được mô tả qua 12 nhân duyên thì hai lực đối lưu nào đang giam cầm chúng sanh ở trong vòng xoáy Saṃsāra? Đây là câu hỏi cực kỳ quan trọng cần thấu triệt. 

Phật dạy trong Kinh Nước Mắt, Tương Ưng Bộ Kinh:


“Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc..”

Như vậy, Trong trạng thái sanh, lão, bệnh, tử: sự bắt đầu không thể chỉ và sự kết thúc cũng không thể biết được! Nhưng Đức Phật dạy rằng không thể có sự chấm dứt sanh tử luân hồi nếu như không chấm dứt vô minh và ái dục. Như vậy, qua bài Kinh này Ngài giúp chúng ta nhận diện ra hai lực đối nghịch, tức là Vô Minh và Ái Dục. Ngày nào còn 2 dòng chảy ngược chiều này thì ngày đó chúng ta còn sanh tử luân hồi. Vô Minh xô tới, Ái Dục kéo lui, khiến cho chúng ta loay hoai mãi trong Saṃsāra

Tại sao Vô Minh nói Vô Minh là lực xô tới? Trong 12 nhân duyên, vô minh duyên hành. Vì vô minh thúc đẩy chúng sanh, xô chúng sanh đi tới để tạo ra nghiệp; vì vô minh cho nên nó xô đẩy chúng ta làm những nghiệp của thân, khẩu và ý. Như vậy, là vô minh là lực xô tới, thôi thúc chúng ta hành những ác nghiệp về thân khẩu ý. Còn ái dục: quay trở lại để tìm kiếm. Vì thọ duyên ái, cho nên ái thực sự sự quay trở lại để tìm kiếm các cảm thọ lạc do các các dục mang tới; vì thế cho nên gọi là ái dục. Ái dục thực sự là cảm giác thỏa mãn khi có thọ lạc.

Như vậy, vô minh là lực xô tới để thôi thúc chúng sanh tạo nghiệp và ái dục là lực quay ngược trở lại trong trong vòng 12 nhân duyên để tìm kiếm những cảm thọ cũ. Như vậy, là hai lực này tạo ra vòng xoáy. Chính vì lý do này cho nên đức Phật nói rằng: không thể có sự chấm dứt luân hồi cho những chúng sanh nào còn vô minh và ái dục. Câu này rất quan trọng. Thực sự, điều mà Đức Phật dạy chúng ta tuy thật sâu xa, khó nhận biết, nhưng chính nhờ ví dụ dòng nước xoáy này, nếu chúng ta biết khéo tư duy, khéo tư niệm chúng ta sẽ nghiệm ra sự thật: Đây chỉ là nguyên lý vật lý rất căn bản: Nếu như ngày nào mà còn 2 lực đối nghịch thì ngày đó còn vòng xoáy. Nếu như ngày nào mà chúng ta còn vô minh và còn ái dục thì ngày đó chúng ta còn sanh tử luân hồi. Nguyên lý cực kỳ đơn giản và dể hiểu nhưng không phải ai ai cũng nhận ra nếu không biết khéo Văn Tư Tu trên lời Phật dạy. Mọi thứ tuân theo đúng nguyên lý như vậy thôi.

Ai muốn chấm dứt sanh tử luân hồi thì là phải tu pháp môn Tứ niệm xứ để chấm dứt vô minh. Tu tập 7 giác chi để chấm dứt vô mình. Hoạc là phải tinh tấn đoạn trừ những ái dục thì lúc đó mới chấm dứt được sanh tử luân hồi.

Đó là nguyên lý căn bản, Phật ra đời hay không ra đời nguyên lý này cũng vậy! Chúng ta Minh hay vô minh, nguyên lý vòng xoáy này cũng vậy. Quá khứ, hiện tại, vị lai gì nguyên lý này cũng vậy. Ta có hiểu nó hay không hiểu nó, nguyên lý này cũng vậy: tức là: Ngày nào ta còn vô minh và ái dục thì ngày đó ta còn bên trong vòng xoáy sanh tử luân hồi. Nguyên lý vật lý của nó là bắt buộc là phải như vậy tức là phải chấm dứt những lực nào tạo ra vòng xoáy. Mọi thứ đều có nguyên nhân.

Bây giờ xin tóm tắt lại những các điểm chính yếu.


Thứ nhất là nghĩa đen của chữ Saṃsāra là dòng nước xoáy. Nhưng đây là một ẩn dụ Phật dạy thêm rằng tâm của chúng ta cũng đang ở trong vòng nước xoáy của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Điều này rất là quan trọng. 
Điều thứ hai là chúng ta bị giam trong dòng nước xoáy này một thời gian rất lâu xa: bốn A tăng kỳ kiếp! Trong thời gian đó nước mắt đổ ra nhiều hơn cả đại dương.
Điều thứ ba là dòng nước xoáy này có nguyên nhân. Nguyên nhân cùa nó là 2 lực đối nghịch duy trì sự tồn tại của dòng nước xoáy. Hai lực đó, đức Phật đã chỉ thẳng ra cho chúng ta là: vô minh và ái dục.
Muốn chấm dứt vòng xoáy sanh tử luân hồi, cần phải cẩn trọng thẩm sát, văn tư tu trên lời Phật dạy. Chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp, nhắm tới chấm dứt vô minh và ái dục để tu thì mới mong thoát khỏi Sanh Tử Luân Hồi.
Tóm lại, ý nghĩa khái niệm Saṃsāra là như vậy. Thuật ngữ này là thuật ngữ căn bản của Đạo Phật được chính Đức Phật khéo chọn lựa ra cùng với ẩn dụ tinh xảo của vòng nước xoáy nhằm mục đích nói cho chúng ta thấu triệt trạng thái đang là vô cùng bi đát của chính chúng ta để chúng ta biết sợ hãi và tinh tấn tu theo tam tuệ Văn Tư Tu để tự mình giải thoát khỏi vòng nước xoáy Saṃsāra. Hiểu thấu sự bi đát của Saṃsāra, chúng ta sẽ thấy hoan hỷ có được cơ hội để học tập phương pháp làm thế nào để thoát ra khỏi Saṃsāra do Đức Phật dạy và từng bước, từng bước, đi tới đích đến tức là Nibbana, Đây cũng là một thuật ngữ quan trọng không kém, nằm ngoài phạm vi của lý luận và ngôn ngữ. Nhưng đó là chủ đề trong bài nói chuyện khác. Chủ đề Về Ý Nghĩa của Saṃsāra xin chấm dứt ở đây. Cám ơn quý vị đã đến chú tâm lắng nghe chương trình tu học của Hội Thiền Tánh Không trong loạt bài Tìm Hiểu và Ứng Dụng Kinh Nguyên Thủy.


Tuệ Huy-Tô Đăng Khoa đọc lại và hiệu đính- Mùa Phật Đản 2018.