Search

12.3.15

Biên niên ký chim vặn dây cót Tác Giả Haruki Murakami

Biên niên ký chim vặn dây cót Tác Giả Haruki Murakami Tốt hơn hết cũng không nên nói gì nhiều về tác phẩm. Bản thân nó quá nhiều thứ để nói. Đối với tôi nó chỉ là một cái giếng. Truyện hay bạn nên đọc và suy ngẫm

Biên niên ký chim vặn dây cót Tác Giả Haruki Murakami
Biên niên ký chim vặn dây cót - Haruki Murakami





Chiếc giếng cạn ở Nội Mông cũng như chiếc giếng trong căn nhà hoang là hai biểu tượng có mối quan hệ với nhau: một bên là điểm đến của sự mặc khải, một bên là điểm bắt đầu của sự tìm kiếm mặc khải. Nó đồng thời là một biểu tượng của sự vô cảm, của hành động tuyệt giao với thế giới bên ngoài, đó là sự phủ nhận niềm tin của tư duy vào đời sống hiện thực ngoài kia: “Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là 'sự vô cảm tuyệt đối'. Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa” [tr.80]. Xuống giếng với Toru Okada là hành trình tìm kiếm chân lý và đúng như Honda đã nói: “Hễ đi lên thì phải chọn ngọn tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy” [tr.64]. Con người ta chỉ có thể tìm được chân lý khi đã đến được với đỉnh cao tuyệt đối để quan sát hay đến tận cùng của khổ đau để chiêm nghiệm, chẳng dễ gì đạt đến đốn ngộ khi sống ở giữa lưng chừng.


Biên niên ký chim vặn dây cót (ねじまき鳥クロニクル Nejimaki-dori Kuronikuru?) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Murakami Haruki. Bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng dịch dựa theo bản tiếng Anh The Wind-up Bird Chronicle của Jay Rubin và bản dịch tiếng Nga Хроники Заводной Птицы của Sergey Logachev và một số đối chiếu với nguyên tác tiếng Nhật. Bản tiếng Việt được ấn hành lần đầu năm 2007. 

Bản gốc tiếng Nhật được phát hành theo ba phần, tạo nên ba "quyển" trong bản tiếng Việt.
Dorobō kasasagi hen (泥棒かささぎ編?) (Chim ác là ăn cắp)
Yogen suru tori hen (予言する鳥編?) (Chim tiên tri)
Torisashi otoko hen (鳥刺し男編?) (Kẻ bắt chim)
Với tiểu thuyết này, Murakami nhận được Giải thưởng Văn học Yomiuri, do nhà phê bình khó tính nhất của ông trước đây,Kenzaburo Oe.

Tóm tắt nội dung

Tiểu thuyết nói về một người đàn ông thất nghiệp, bình thường, Okada Toru tìm kiếm con mèo mất tích. Một chuỗi các sự kiện diễn ra sau đó chứng minh rằng cuộc đời trần tục có vẻ đơn điệu lại hóa ra phức tạp hơn rất nhiều. Tiểu thuyết còn nhắc tới giai đoạnMãn Châu quốc trong Thế chiến II và vị trí của nó trong lịch sử Nhật Bản.
Các nhân vật chính[sửa | sửa mã nguồn]
Trong các nhân vật chính và phụ trong cuốn sách này, một số nhân vật quan trọng nhất gồm có:
Okada Toru: Người kể chuyện và là nhân vật chính, Toru là một mẫu đàn ông trẻ thụ động và thường lãnh đạm sống trong vùng ngoại ô nước Nhật. Anh là chồng của Kumiko và thường xuyên nghe theo những mệnh lệnh hoặc mong muốn của người khác. Hiện đang thất nghiệp, anh là hiện thân của sự thụ động.
Okada Kumiko: Kumiko là vợ của Toru, trụ cột về mặt tài chính trong gia đình và là người tự lập. Cô làm việc trong một công ty xuất bản.
Wataya Noboru: Noboru là anh trai của Kumiko. Anh được giới thiệu là một mẫu người cuốn hút; công chúng yêu anh ta, nhưng Toru thì không thể chịu đựng được. Noboru thoạt đầu xuất hiện như một học giả, rồi theo câu chuyện trở thành một chính trị gia, và không có đời sống cá nhân rõ ràng. Anh được mô tả là một người có bề ngoài giả tạo, và không thực. ("Wataya Noboru" còn là tên mà Toru và Kumiko đã đặt cho con mèo của họ.)
Kasahara May: May là một thiếu nữ ở tuổi đi học, nhưng cô không muốn theo học. Toru và May liên lạc thường xuyên với nhau trong suốt cuốn sách; khi May không hiện diện, cô viết thư cho anh (mặc dù sau khi đọc kỹ, người đọc có thể thấy các thư của cô không đến được địa chỉ của anh). Những mẩu đối thoại giữ hai người thường quái dị và đề cập đến cái chết và sự suy đồi của đời sống con người. Quái dị hơn là không khí vui tươi hoàn toàn không nghiêm túc khi miêu tả cuộc đối thoại giữa hai người.
Kano Malta: Kano Malta là một nhân vật trung gian đã đổi tên mình thành "Malta" sau khi thực hiện một dạng "tu hành" ở đảo Malta một thời gian. Cô được Kumiko nhờ vả giúp gia đình tìm con mèo bị lạc.
Kano Creta: Em gái của Malta và là người học việc, cô được mô tả là "con điếm tinh thần". Hơi khó hiểu, đối với Toru, Creta có khuôn mặt và thân hình y hệt như Kumiko.
Akasaka Nhục đậu khấu: Nhục đậu khấu gặp Toru lần đầu khi anh đang ngồi trên ghế đá để nhìn khuôn mặt của mọi người ngày này qua ngày khác ở Shinjuku. Lần thứ hai họ gặp nhau, bà ta bị thu hút bởi vết bầm trên má trái của anh. Bà và Toru có một sự tình cờ kỳ lạ: chim vặn dây cót trong sân vườn của Toru và vết bầm trên má xuất hiện trong những câu chuyện liên quan đến Thế chiến II của Nhục đậu khấu, cũng như cha của Nhục đậu khấu và Trung úy Mamiya (một người quen của Toru) được liên kết với nhau thông qua Thế chiến II. "Akasaka Nhục đậu khấu" là cái tên giả mà bà đã tự chọn sau khi nói với Toru rằng không thích hợp khi nói tên "thật" của mình. Tên thật của bà không bao giờ được đề cập trong tiểu thuyết.
Akasaka Quế: Quế là đứa con trai câm, nhưng cực kỳ của thông minh của Nhục đậu khấu. Anh giao tiếp thông qua hệ thống các dấu hiệu bằng tay vô cùng dễ hiểu và bằng cách nhép miệng. Cũng vậy "Quế" là một cái tên giả do Nhục đậu khấu đặt ra. Tên thật của Quế cũng không được đề cập tới.

Những chương bị thiếu


Có hai chương trong quyển thứ ba trong bản bìa mềm tiếng Nhật không có trong bản dịch tiếng Anh, và cả bản dịch tiếng Việt. Ngoài ra, một trong những chương nằm gần các chương bị mất được di chuyển lên trước một chương khác, khiến cho nó không còn có bối cảnh cũ như thứ tự gốc.[1]
Hai chương bị thiếu này nói rõ hơn về mối quan hệ giữs Okada Toru và Kano Creta, và một "phiên tòa" của chim vặn dây cót khi Toru đốt hộp đựng áo quần của Kumiko.
Bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng thực hiện dựa theo bản tiếng Anh The Wind-up Bird Chronicle của Jay Rubin và bản dịch tiếng Nga Хроники Заводной Птицы của Sergey Logachev và một số đối chiếu với nguyên tác tiếng Nhật.
Cũng nên chú ý rằng ngoài những sự khác biệt giữa bản tiếng Nhật và tiếng Việt, còn có những sự khác biệt giữa bản bìa cứng và bìa mềm bằng tiếng Nhật.
Khá thú vị khi để ý trong bản gốc, tên của nhân vật chính đều được viết theo chữ katakana chứ không phải kanji. Đây là một sự lựa chọn táo bạo của tác giả, và nó chuyển tải một thông điệp không thể thể hiện được khi dịch sang ngôn ngữ khác. Có lẽ nó có cùng lý do với việc tại sao tác giả không bao giờ mô tả hình dạng thật của Toru.

XEM THÊM:

Mâu thuẫn tôn giáo Do Thái giáo VS Kito giáo VS Hồi giáo.
ıạl ɔợưƃu ĩɥƃu và làm khác đi.
Khung Cửa Hẹp tác giả Andre Gide.
Quê hương những đêm chờ sáng tác giả Tiến sĩ Alan ....
Hỏi đáp về ma quỷ (phi nhân) trong phật giáo.
Mật Mã Tây Tạng Tác Giả Hà Mã trọn bộ 10 tập.
Totto Chan Cô bé bên cửa sổ tác giả Tetsuko Kuroyanagi.
Nói với tuổi 20 tác giả Thích Nhất Hạnh.
Nửa kia của Hitler tác giả Eric Emmanuel Schumitt.
Quảy Gánh Băng Đồng Ra Thế Giới tác.
Phía sau nghi can X tác giả Higashino Keigo.
Những cuộc phiêu lưu của Mít đặc và các bạn tác giả ....
Tuyển tập Toại Khanh- Sư Giác Nguyên.
LÃNG MINH:Chuyện Phiếm Thầy Tu Sư Toại Khanh.
Tỳ Khưu Chơn Tín.
NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ ....
Phanblogs Nửa đời trước của tôi tự truyện của Ái Tân Giác La Phổ
Danh sách 50 cuốn sách cần đọc dịch giả Thái bá tân.
Thích nhất hạnh ebook.
1Q84 Haruki Murakami.
hachiko chú chó đợi tác giả luis prats.
THE SYMPATHIZER (CẢM TÌNH VIÊN) TÁC GIẢ ....
Pippi Tất Dài tác giả Astrid Lindgren.
Chuyện con mèo dạy hải âu bay tác giả Luis Sepúlveda.
NGƯỜI BÁN HÀNG VĨ ĐẠI NHẤT THẾ GIỚI TÁC GIẢ OG ....
Hương rừng Cà Mau tác giả Sơn Nam.
ĐOẠN NÀO BUỒN TA BỎ BỚT CHO VUI.
Một ngày của Ivan Denisovich Aleksandr Solzenisyn.
Chiếc áo lặn và con bướm tác giả Jean Dominique Bauby.
Hỏi đáp về ma quỷ (phi nhân) trong phật giáo.

Biên niên ký chim vặn dây cót - Haruki Murakami .DOC

https://docs.google.com/document/d/0B0hPR4sOzdAORzlsck9FcUxHbms/edit?usp=sharing&ouid=104167641700529659665&resourcekey=0-ekBNZA3hQT6cb5MFwkehGQ&rtpof=true&sd=true


Biên niên ký chim vặn dây cót - Haruki Murakami .PDF


https://docs.google.com/document/d/0B0hPR4sOzdAORzlsck9FcUxHbms/edit?usp=sharing&ouid=104167641700529659665&resourcekey=0-ekBNZA3hQT6cb5MFwkehGQ&rtpof=true&sd=true


12.2.15

Dàn nhạc đỏ Tác Giả Leopold Trepper

Dàn nhạc đỏ Tác Giả Leopold Trepper


Xuất xứ một cái tênTrong Thế chiến II, Leopold Trepper - cái tên luôn gắn liền với lưới điệp báo huyền thoại Dàn nhạc đỏ, chỉ huy nhóm điệp viên Xô Viết với các mật danh Uncle, Otto, được các cơ quan tình báo hàng đầu thế giới công nhận là “một trong những điệp viên giỏi nhất của mọi thời đại”. Cho đến nay, người ta vẫn nhắc đến ông với sự khâm phục và ngưỡng mộ đặc biệt. Thuật ngữ Dàn nhạc Đỏ là tên gọi chung của những nhóm phản kháng độc lập và các lưới tình báo trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, hoạt động ở một số nước châu u, như Đức, Bỉ, Pháp. Nó cũng đồng nghĩa với các lực lượng chống lại bọn Đức quốc xã. Lan tỏa khắp châu uMạng lưới của tổ điệp báo bất hợp pháp trực thuộc Cục Tình báo quân sự Liên Xô (sau này là Tổng cục Tình báo Quốc phòng - GRU) trước Thế chiến II không chỉ đứng chân ở Đức mà còn lan tỏa ra khắp châu u. Ở Đức, Gestapo (tên gọi tắt của Geheime Staatspolizei - lực lượng cảnh sát bí mật của tổ chức SS do Đức Quốc xã lập ra) gọi lưới điệp báo này là Dàn
Dàn nhạc đỏ Tác Giả Leopold Trepper

Dàn nhạc đỏ Tác Giả Leopold Trepper



Dàn nhạc Đỏ bao gồm rất nhiều nhóm kháng chiến chống phát xít, đôi khi không liên quan đến nhau. Họ hoạt động hoặc là độc lập, hoặc là hợp tác với tình báo đối ngoại Liên Xô. Một bộ phận trong số đó nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GRU. Dàn nhạc Đỏ hoạt động trên khắp châu u trong thời gian nằm dưới chính quyền Đức, cũng như ở những nước vẫn còn trung lập. Lưới này gồm nhiều trạm phát sóng ngắn bất hợp pháp, triển khai hoạt động của mình từ Na Uy đến dãy Pirene, từ Đại Tây Dương đến sông Ode, từ Biển Bắc đến Địa Trung Hải. Cuối những năm 1930, hiểu rõ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đầu não của tình báo quân sự Liên Xô thực hiện các biện pháp tổ chức thu thập tin tức ngay trong thời bình nhằm phát hiện âm mưu, ý đồ của Đức. Với mục đích đó, đầu năm 1939, tình báo viên bất hợp pháp của GRU là Leopold Trepper được biệt phái sang Brussels (Bỉ) với mật danh Otto. Trepper “đóng vai” một nhà tư bản công nghiệp Canada với nhiệm vụ ban đầu là thiết lập “vỏ bọc” kinh doanh, thương mại cho lưới điệp báo. Và ông đã lập một công ty xuất khẩu có chi nhánh ở hầu hết các hải cảng châu u. Hướng về Moskva Hồi đó, Gestapo rất lo ngại phải đối phó với những nhóm kháng chiến ở Bỉ, Pháp, Thuỵ Sĩ, Đức có liên hệ với tình báo Xô Viết. Để làm lu mờ phương hướng chống Hitler, Tổng cục An ninh Đế chế Đức Quốc xã đã gán cho các nhóm kháng chiến tội “hoạt động gián điệp quốc tế” và quyết định triển khai chiến dịch triệt phá mang tên “Đại đội dàn nhạc”. Đầu tiên, đội đặc nhiệm SS (SS-Sonderkomando Rote Kapelle), với nhiệm vụ phát hiện và xoá sổ các đài phát bất hợp pháp hoạt động trên lãnh thổ nước Đức, tổ chức chặn thu sóng vô tuyến điện bất hợp pháp hoạt động trên lãnh thổ các nước châu u bị Đức chiếm đóng. Sau khi phát xít Đức phát hiện ra một đài phát bí mật tại Brussels(Bỉ), năm 1942, Gestapo đã bóc gỡ ra toàn bộ tổ chức hoạt động của lưới điệp báo ở châu u, bao gồm: Leopold Trepper - lãnh đạo nhóm đặc tình Xô Viết, Anatoli Gurevick với biệt danh là Kent, một tình báo viên nổi tiếng ở Brussels. Cùng với đó, ở Đức có những đặc tình quan trọng như thượng uý Schulze-Boysen phục vụ trong lực lượng không quân; Acvit Harnack, làm việc trong Bộ Kinh tế.
Leopold Trepper


Hơn 200 người bị bắt, trong đó 120 người đã bị bắn chết hoặc bị giết trong các nhà tù và trại tập trung của phát xít Đức. Đa số họ đã bị lực lượng Gestapo tiêu diệt. Theo tiết lộ của tên sỹ quan SS Panxinger, nguyên phó phòng Gestapo ở Miule, bị Hồng quân Liên Xô bắt làm tù binh, ngày 29.6.1951, trong cuộc hỏi cung ở cơ quan chống gián điệp, anh ta đã khai rằng việc theo dõi hoạt động của tổ chức chống phát xít được bắt đầu khi các chuyên gia vô tuyến điện chặn thu được các bản tin mật mã (tiếng lóng của phản gián gọi các điện tín viên là “nhạc công”, “người đánh pianô”). Trong không trung, tiếng đánh morse không phải của một máy phát vô tuyến mà rất nhiều máy. Ở Đức và ở các nước châu u bị chiếm đóng có cả một “dàn nhạc” hoạt động. Cơ quan chống gián điệp vô tuyến của Đức xác định, “các nhạc công” đều hướng các buổi phát của mình về phía Moskva. Vì thế, “dàn nhạc” được mang màu “Đỏ”. Vượt lên những hiểm nguy, những thách thức và khó khăn, tên gọi đó đã đi vào lịch sử như một biểu tượng cho lòng dũng cảm của con người, thể hiện sự chống đối kiên cường đối với chủ nghĩa phát xít Đức.


Dan Nhac Do - Leopold Trepper.docx
Share
Dan Nhac Do Leopold Trepper.pdf




Trước khi rời Liên Xô, Leopold vào ký túc xá từ biệt Michel. Lòng anh nặng trĩu khi phải để con ở lại cái kí túc xá đang trở thành nhà trẻ mồ côi này. Anh nói với con:


- Michel, bố sắp đi công tác cho đảng, bố sẽ vắng mặt một thời gian...


Michel không nói gì. Leopold có cảm tưởng đau đớn khi từ giã con. Anh hôn con rồi bước ra... đến sân ga cách ký túc xá hai kilômet, bỗng anh nghe thấy tiếng gọi, anh quay lưng lại thấy một bóng nhỏ ôm chầm lấy anh. Đó là Michel, nó hét (mà anh không bao giờ quên nổi):


- Đừng bỏ con, đừng bỏ con, con không muốn ở lại một mình đâu! 16 năm sau Leopold mới gặp lại đứa con đầu lòng của anh.
----------

Không thể nào tin được hắn. Đã phản bội một lần thì lần sau có cơ hội hắn sẽ phản bội nữa. Chính hai tay của hắn đã đóng chặt cái lối về. Khi đã phó mặc cho kẻ thù tùy ý khu xử thì chỉ còn có hai lựa chọn. Giữa đầu hàng và kháng chiến là một vực thẳm không thể qua được. Không thể từ phản bội trở thành người kháng chiến được.

Dàn nhạc đỏ Tác Giả Leopold Trepper pdf

Dàn nhạc đỏ Tác Giả Leopold Trepper docx


https://drive.google.com/file/d/0B0hPR4sOzdAObkZlUDJ1NE1qbnM/view?resourcekey=0-CkZPX4bqqN17qot8IkPLFw