Search

16.10.20

Spinoza Phố Chợ tác giả Isaac Bashevis Singer

Spinoza Phố Chợ tác giả Isaac Bashevis Singer



Isaac Basevic Singer, sinh ở Radzymin, Đế chế Nga (nay là Ba Lan) trong gia đình có bốn người con. Bố là người sùng tín Do Thái giáo thần bí, mẹ ở nhà làm nội trợ. Từ bé I. Singer thường được bố kể cho nghe những câu chuyện về thiên thần, quỷ sứ và nghe mẹ kể những câu chuyện về cổ tích gia đình. Năm lên 4 tuổi, gia đình chuyển về Warszawa Singer vào học ở trường dòng, ông bắt đầu say mê đọc các sách chính trị, kinh tế và văn học cổ điển Nga thế kỉ XIX. Năm 13 tuổi, I. Singer theo mẹ về quê ngoại ở miền Đông Ba Lan, nơi phong cảnh thiên nhiên cũng như cuộc sống con người vẫn còn giữ được khá đầy đủ những nét cổ xưa của thời Trung cổ. Năm 1923 I. Singer quay về Warszawa làm người chữa bản in cho tạp chí Trang văn học (Literarische Bletter). 

Thời gian này ông nghiên cứu triết học, ngôn ngữ, tâm lý học, các môn khoa học tự nhiên và bắt đầu thử viết văn. Năm 1927 tạp chí Literarische Bletter đăng 2 truyện ngắn đầu tay Tuổi già và Người đàn bà của ông, những năm sau đó ông tiếp tục viết truyện ngắn, dịch các tiểu thuyết hình sự Đức và tác phẩm của K. Hamsun, T. Mann.
Tiểu thuyết đầu tay Quỷ Sa tăng ở Goray của I. Singer đăng tải trên một tạp chí trong suốt năm 1934, in thành sách năm 1943, được các nhà phê bình đánh giá cao. Khi đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức, I. Singer sang Mỹ định cư. Tại đây, ông cộng tác với báo Jewish Daily Forward và tiếp tục viết văn. I. Singer bắt đầu nổi tiếng khi tiểu thuyết Gia đình Mushkat (1945-1948) được dịch sang tiếng Anh (1950). Còn sau khi tờ tạp chí Partisan Review đăng truyện dài Gimpel dại dột qua bản dịch của S. Bellow thì I. Singer chính thức được thừa nhận. Gimpel là một nông dân quái gở và dại dột, cả tin và luôn bị những người hàng xóm lừa bịp. Tuy vậy, cuối cùng Gimpel cũng đã rút ra được điều kết luận rất chân tình: "Không nghi ngờ một điều rằng thế giới của ta là cõi mộng nhưng để đến cõi mộng này ta phải đi qua đời thực". Tiểu thuyết tình yêu Kẻ nô lệ (1962) kể về đời sống của người Do Thái ở Ba Lan thời trung cổ trở thành sách best-seller của ông.

Năm 1964, I. Singer được bầu làm thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Quốc gia Mỹ. 5 năm sau ông nhận giải thưởng Quốc gia nhờ cuốn hồi ký viết cho trẻ em Ngày hạnh phúc: những câu chuyện về cậu bé lớn lên ở Warszawa. I. Singer nói ông viết cho trẻ em bởi vì "Con trẻ hãy còn tin vào Thượng đế và gia đình, thiên thần và quỷ sứ, phù thủy và yêu tinh...".

Trong diễn từ nhận giải Nobel, I. Singer coi việc tặng giải cho ông là "sự thừa nhận đối với ngôn ngữ Yiddish – một ngôn ngữ chịu cảnh tha hương, ngôn ngữ không có đất, không có biên cương… một ngôn ngữ mà không có từ để diễn tả những khái niệm như "vũ khí", "quân trang", "huấn luyện cực hình", "chiến thuật nhà binh"… Tiếng Yiddish là một ngôn ngữ khiêm nhường và luôn lo sợ nhưng không đánh mất niềm hy vọng của con người". Các nhà phê bình có những đánh giá khác nhau về I. Singer, nhưng ông được coi là một người kể chuyện tài hoa, hấp dẫn. Ông mất ở Surfride, Florida, Mỹ năm 1991.



Spinoza Phố Chợ tác giả Isaac Bashevis Singer -Hà Vũ Trọng dịch
Spinoza Phố Chợ tác giả Isaac Bashevis Singer -Hà Vũ Trọng dịch

Tiến sĩ Nahum Fischelson bước tới bước lui trong căn phòng gác mái ở khu Phố Chợ, thành phố Vácsava. Tiến sĩ Fischelson là người đàn ông lùn, lưng còng với bộ râu muối tiêu, và đầu hói nhẵn, trừ vài cụm tóc sót lại sau gáy. Mũi ông khoằm như mỏ chim, đôi mắt to, đen, và rập rờn như đôi cánh vỗ của loài chim khổng lồ. Đó là vào một tối mùa hè nóng nực, nhưng Tiến sĩ Fischelson vẫn mặc cái áo khoác đen dài tới đầu gối, cổ áo cứng và nơ đeo cổ. Từ cánh cửa, ông bước chậm rãi tới ô cửa sổ trên mái nhà trong căn phòng nghiêng, rồi ông trở lui. Phải leo mấy bậc thang lên tới ô cửa sổ để nhìn ra ngoài trời. Một ngọn nến trong cái chân đế bằng đồng đang cháy trên bàn và lũ côn trùng các loại bay vo ve quanh ngọn lửa. Thi thoảng một trong những sinh vật này bay quá gần ngọn lửa khiến đôi cánh cháy sém, hoặc có con bốc cháy và rực sáng ngay trên ngọn bấc trong thoáng chốc. Vào những lúc đó, Tiến sĩ Fischelson nhăn nhó. Khuôn mặt nhăn nheo của ông hẳn sẽ co giật và dưới bộ ria rậm ông bậm môi lại. Cuối cùng, ông rút cái khăn tay ra khỏi túi rồi phất vào lũ côn trùng.
“Tránh xa, lũ ngu ngốc đần độn,” ông mắng. “Tụi bay có được sưởi ấm ở đây đâu nào, mà chỉ tự thiêu mình thôi.”

Lũ côn trùng tản mác ra nhưng vài giây sau quay lại và một lần nữa lượn quanh ngọn lửa chập chờn. Tiến sĩ Fischelson lau mồ hôi trên nếp trán nhăn rồi thở dài, “Giống y như con người chẳng ham muốn gì ngoài cái khoái lạc của khoảnh khắc này.” Trên bàn là một cuốn sách đang mở viết bằng tiếng Latin, và bên các trang lề rộng là các ghi chú và chú giải được ​​in khổ chữ nhỏ. Cuốn Đạo đức học của Spinoza mà Tiến sĩ Fischelson nghiên cứu nó suốt ba mươi năm qua. Ông biết mỗi mệnh đề, mỗi luận chứng, mỗi hệ luận, mỗi chú giải ông đều thuộc lòng. Khi muốn tìm một đoạn văn cụ thể nào, ông thường mở chỗ đó ra ngay lập tức mà không cần phải tìm. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu Đạo đức học nhiều giờ mỗi ngày bằng cái kính lúp trong bàn tay gầy guộc, lẩm bẩm và gật gù tán thành. Thật tình là càng nghiên cứu, Tiến sĩ Fischelson càng phát hiện ra có những câu cú làm bối rối, những đoạn văn tối nghĩa, và những nhận định đầy ẩn ngữ. Mỗi câu hàm súc những thâm ý chưa được thấu hiểu bởi bất kì môn đệ nào của Spinoza. Quả thật, vị triết gia này đã sớm dự kiến được tất cả những phê phán về lí tính thuần tuý do Kant và những môn đệ đề xuất. Tiến sĩ Fischelson đang viết chú giải cho cuốn Đạo đức học. Trong những ngăn kéo đầy ắp những ghi chú và bản thảo, nhưng dường như ông sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn thành công việc. Bệnh dạ dày đã gây ra cho ông nhiều năm nay mỗi ngày mỗi tồi tệ hơn. Bây giờ ông sắp lại bị cơn đau dạ dày sau khi ăn chỉ vài miếng bột yến mạch. “Lạy Chúa Trời, thật khó, khó khăn lắm ạ,”, ông tự nói với mình, dùng ngữ điệu giống như người cha quá cố của ông, Rabbi Tishevitz. “Thật là khó, khó lắm đấy.”

Tiến sĩ Fishelton không sợ chết. Đầu tiên, ông không còn là một thanh niên nữa. Thứ hai, trong phần thứ tư cuốn Đạo đức học có đoạn nói rằng “một kẻ tự do thì suy nghĩ rất ít về sự chết và trí tuệ của kẻ ấy là một trầm tư không phải về sự chết mà về sự sống.” Thứ ba, cũng nói rằng “Tâm linh con người không bị huỷ hoại hoàn toàn cùng với nhục thể, mà một phần nào của nó vẫn còn lại bất diệt.” Thế nhưng vết loét của Tiến sĩ Fischelson (hoặc có thể đó là ung thư) tiếp tục làm phiền ông. Lưỡi ông lúc nào cũng bị phủ trắng. Ông thường xuyên hít và thở ra một mùi khí hôi mỗi lần khác nhau. Ông bị chứng ợ nóng và chuột rút. Đôi khi ông cảm thấy buồn nôn và có lúc thèm tỏi, hành và các loại thực phẩm chiên. Từ lâu ông bỏ hẳn những thứ thuốc được y sĩ kê toa và tự tìm cách chữa trị riêng. Ông thấy ích lợi khi ăn củ cải mài nhuyễn sau những bữa ăn và nằm trên giường, bụng để xuôi xuống, còn đầu thì treo lên nghiêng một bên. Nhưng những biện pháp khắc phục tại nhà chỉ thuyên giảm tạm thời. Một số sĩ bác sĩ sau khi kiểm tra​​thì lại khẳng định rằng ông không có vấn đề gì. Họ bảo: "Đấy chẳng qua do căng thẳng thần kinh. Ông có thể sống tới trăm tuổi.”

Nhưng vào cái mùa hè nóng nực quá thể này, Tiến sĩ Fishelton cảm thấy sức lực suy sụp. Đầu gối ông lập cập, mạch đập yếu. Ông ngồi đọc mà thị lực nhập nhoà. Các con chữ trên trang sách chuyển từ màu xanh lá sang vàng choé. Những hàng chữ gợn sóng và nhảy chồm lên nhau, để lại những chỗ trống bạch như thể văn bản đã biến mất theo một cách bí ẩn nào đó. Nhiệt độ không thể chịu nổi phát ra trực tiếp từ mái tôn; Tiến sĩ Fischelson cảm thấy như đang ở trong cái lò. Mấy lần ông leo lên bốn bậc thang tới khung cửa sổ và thọc đầu ra ngoài trời mát trong làn gió nhẹ ban đêm. Ông hẳn sẽ giữ yên tư thế đó lâu tới lúc đầu gối ông loạng choạng. “Ôi, cơn gió tuyệt”  ông thì thầm “thật là thích thú” và ông nhớ lại rằng theo Spinoza, đạo đức và hạnh phúc mang tính đồng nhất, và hành vi đạo đức phù hợp nhất mà một người có thể thực hiện là hưởng thụ một số khoái cảm miễn là không trái với lí tính.

II
Tiến sĩ Fischelson đứng trên bậc thang đầu tiên bên cửa sổ và nhìn ra ngoài, có thể nhìn vào hai ‘thế giới’. Trên đầu ông là những tầng trời, rải dày đặc những tinh tú. Tiến sĩ Fischelson chưa bao giờ nghiên cứu nghiêm túc về thiên văn học, nhưng ông có thể phân biệt được các hành tinh mà những thiên thể giống như trái đất, xoay quanh mặt trời, và những định tinh, bản thân chúng là những mặt trời xa xôi, ánh sáng của chúng chiếu đến chúng ta phải mất cả trăm năm hoặc thậm chí cả ngàn năm sau này. Ông nhận ra những chòm sao đánh dấu quỹ đạo của trái đất trong không gian và cái dải tinh vân kia, là Ngân Hà. Tiến sĩ Fischelson có cái kính thiên văn nhỏ ông mua được ở Thụy Sĩ nơi ông đã học hành và đặc biệt mê nhìn mặt trăng qua nó. Ông có thể nhìn thấy bề mặt của mặt trăng những ngọn núi lửa tắm ánh mặt trời và những cái hố hắt bóng tối. Ông không bao giờ mệt mỏi khi nhìn đăm đăm vào những vết rạn và kẽ nứt đó. Đối với ông, chúng như vừa gần vừa xa, vừa là thực thể vừa phi thực thể. Thi thoảng ông thấy một ngôi sao băng vạch một đường cung rộng ngang bầu trời rồi biến mất, để lại một vệt ngút cháy đằng sau nó. Tiến sĩ Fischelson hẳn biết rằng một thiên thạch đã bay đến bầu khí quyển của chúng ta, và có lẽ một số mảnh vỡ không bị cháy của nó đã rơi xuống đại dương hoặc hạ xuống sa mạc hay thậm chí ở một vùng đất có người ở. Dần dà, những ngôi sao xuất hiện từ phía sau nóc nhà của Tiến sĩ Fischelson mọc lên cho đến khi chúng sáng rỡ trên ngôi nhà bên kia dãy phố. Vâng, khi Tiến sĩ Fischelson nhìn lên những tầng trời, ông đã nhận thức được sự mở rộng vô biên đó, mà theo Spinoza, là một trong những thuộc tính của Thượng Đế. Điều an ủi Tiến sĩ Fischelson khi cho rằng tuy ông chỉ là một kẻ yếu đuối, nhỏ bé, là một hình thái biến dịch của Thực thể vô hạn tuyệt đối, tuy thế ông lại là một bộ phận của vũ trụ, được cấu thành cùng vật chất như các thiên thể; tới mức độ ông là một phần của Thần tính, ông biết rằng mình cũng bất hoại. Trong những khoảnh khắc như thế Tiến sĩ Fischenson đã trải nghiệm được Tình yêu trí tuệ của Thượng đế - Amor Dei intellectualis mà theo vị triết gia [Spinoza] ở Amsterdam, là sự hoàn mĩ tối cao của tinh thần. Tiến sĩ Fischelson hít thật sâu, ngẩng đầu thật cao tuỳ cái cổ áo cứng cho phép, và thực sự cảm giác rằng ông đang phiêu diêu quay đồng hành cùng với quả đất, mặt trời, những tinh tú của dải Ngân Hà, và vô lượng những ngân hà chỉ được biết bằng tư tưởng vô hạn. Đôi chân ông trở nên nhẹ bỗng và vô trọng lượng, hai bàn tay ông nắm lấy khung cửa sổ như thể sợ rằng sẽ cất khỏi mặt đất mà bay vào cõi vĩnh hằng.

Khi Tiến sĩ Fischelson đã mệt nhoài vì quan sát bầu trời, ánh mắt ông rơi xuống khu Phố Chợ phía dưới. Ông có thể nhìn thấy một cái dải dài trải từ chợ Yanash tới Phố Sắt với những ngọn đèn gas bên đường sắp hàng hợp thành một chuỗi như những đốm lửa. Khói bốc lên từ các ống khói trên những mái nhà tôn đen; Những người làm bánh đang đốt lò, và phảng phất những tia lửa lẫn vào khói đen. Đường phố chẳng bao giờ trông ồn ào và đông đúc đến như thế vào một buổi tối hè. Bọn trộm cắp, gái mại dâm, con bạc, và những kẻ bán hàng ăn cắp lảng vảng ở quảng trường, nhìn từ trên cao xuống tất cả trông như cái bánh mì xoắn Pretzel rắc hạt anh túc. Đám trai trẻ cười lỗ mãng và đám con gái la toáng lên. Một người bán rong đeo sau lưng cái bình nước chanh cứ mỗi tiếng rao của hắn từng hồi lại áp đảo mọi tiếng ồn.  Một người bán rong dưa hấu rao bằng một giọng gay gắt và lưỡi dao dài mà hắn dùng cắt loại quả này nhỏ giọt nước như máu. Chốc chốc khu phố lại càng rung chuyển. Những xe cứu hoả, những bánh xe nặng nề cóc cách; chúng được đàn ngựa đen cường tráng kéo đi và chúng bị khớp chặt để khỏi chạy loạn xạ. Kế đến một chiếc xe cấp cứu, tiếng còi hụ thất thanh. Rồi những tên côn đồ đánh lộn nhau và cảnh sát lại phải tới thăm. Một khách bộ hành bị cướp giật và chạy quanh kêu gào sự giúp đỡ. Mấy chiếc xe ngựa chất đầy củi tìm cách băng vào mấy cái sân nơi toạ lạc những tiệm bánh mì nhưng đàn ngựa không thể nào lăn được bánh xe lên trên lề đường dốc và các phu xe chửi mắng những con vật và quất roi vào chúng. Những tia lửa loé lên từ những bộ móng guốc lọc cọc. Giờ này đã quá bảy giờ rồi, theo quy định là giờ các của tiệm đóng cửa, nhưng thực tế thì công việc làm ăn mới chỉ bắt đầu. Khách hàng được lén lút dẫn vào qua cửa sau. Cảnh sát Nga trên đường phố đã được xuỳ tiền cho nên họ làm ngơ không thấy điều này. Những người bán rong tiếp tục bán, mỗi tiếng rao cố lấn át tiếng rao của người khác.
“Vàng, vàng, vàng khối đây!” Người đàn bà gào lên giữa đống cam thối.
“Đường, đường, đường mật đây!” Giọng khàn khàn của người bán mận chín nẫu.
“Đầu, đầu, ai mua đầu không!” Cậu bé bán đầu cá rống lên.

Bên kia đường qua cửa sổ trường học của phái Hasidic, Tiến sĩ Fischelson có thể nhìn thấy những cậu bé với lọn tóc mai dài lắc lư người trước những quyển sách thánh, vừa nhăn nhó vừa học lớn tiếng bằng giọng điệu ngâm nga. Những đồ tể, những người gác cổng, và những người bán trái cây đang uống bia trong quán rượu bên dưới. Hơi bốc lên từ cánh cửa mở của quán rượu như hơi nước từ một nhà tắm, và tiếng nhạc rầm rầm. Bên ngoài quán rượu, những cô gái điếm chộp lấy những người lính say rượu và những công nhân trên đường về nhà. Mấy gã đàn ông vác củi trên vai làm Tiến sĩ Fischelson nhớ tới kẻ ác bị kết án phải tự nhóm ngọn lửa đốt chính họ trong Địa ngục. Những cái máy hát đĩa rè trút những tiếng ken két qua cửa sổ mở. Nghi thức phụng vụ trong những ngày lễ được xen vào bằng những bài hát từ hí kịch dung tục.

Tiến sĩ Fischelson nhìn kĩ vào cái nhà thương điên tranh tối tranh sáng ấy và dỏng tai lên. Ông biết rằng hành vi của đám người ô hợp này là phản đề của lí tính. Những kẻ này đắm mình trong sự phù phiếm nhất của những ham mê, say sưa trong thất tình lục dục, và, theo Spinoza, thất tình lục dục không bao giờ tốt. Thay cho khoái lạc mà họ chạy theo, tất cả những gì họ đạt được chỉ là bệnh tật và nhà tù, ô nhục và đau khổ do sự ngu muội. Ngay cả những con mèo lảng vảng trên mái nhà nơi đây cũng có vẻ man rợ hơn và cuồng nhiệt hơn những con mèo ở những khu vực khác của thành phố. Chúng gào lên bằng giọng phụ nữ trong cơn đau đẻ, và như những con quỷ chạy trên những bức tường và nhảy vào mái hiên và ban công. Một trong những con mèo dừng lại ở cửa sổ của Tiến sĩ Fischelson cất tiếng hú làm cho Tiến sĩ Fischelson rùng mình. Tiến sĩ bước ra khỏi cửa sổ, nhặt cây chổi rồi vung lên trước đôi mắt xanh sáng rực của con quái vật đen. “Cút đi, xéo đi, đồ ngu muội dã man!” – rồi ông gõ cán chổi cộp cộp vào mái nhà cho đến khi con mèo chạy mất.

III
Khi Tiến sĩ Fischelson trở về Vácsava từ Zurich, nơi ông du học triết học, một tương lai tuyệt vời cho ông đã được dự đoán. Bạn bè biết rằng ông đang viết một cuốn sách quan trọng về Spinoza. Một tạp chí Ba Lan của người Do Thái đã mời ông cộng tác; ông đã là vị khách quý thường xuyên tại một số gia đình giàu có và được mời làm quản thủ thư viện cho hội đường Do Thái ở Vácsava. Mặc dù ngay cả thời điểm đó ông vẫn bị xem như một ông cử độc thân, những bà mối đã dạm hỏi mấy cô gái nhà giàu cho ông. Nhưng Tiến sĩ Fischelson đã không lợi dụng những cơ hội này. Ông muốn độc lập như chính Spinoza. Và quả nhiên ông làm được. Nhưng do tư tưởng có tính dị giáo của ông đã khiến ông tới chỗ xung đột với vị rabbi và đã phải thôi chức thủ thư. Những năm về sau, ông phải tự nương nhờ bằng việc dạy tư tiếng Hê-brơ và tiếng Đức. Sau đó ông bị bệnh, cộng đồng Do Thái Berlin đã bỏ phiếu thông qua khoản trợ cấp cho ông năm trăm đồng Mác một năm. Điều này có được khả dĩ do sự can thiệp của Tiến sĩ Hildesheimer trứ danh, người mà ông trao đổi thư tín thảo luận về triết học. Để sống cầm chừng bằng khoản hưu trí nhỏ nhoi, Tiến sĩ Fischelson đã dọn vào căn phòng gác mái và bắt đầu tự nấu ăn bằng cái lò dầu hoả. Ông có cái tủ chạn nhiều ngăn kéo, và mỗi ngăn đều dán nhãn ghi đựng món gì - kiều mạch, gạo, lúa mạch, hành, cà rốt, khoai tây, nấm. Mỗi tuần một lần, Tiến sĩ Fischelson đội mũ đen rộng vành, một tay xách giỏ còn tay kia khư khư cuốn Đạo đức học của Spinoza, rồi ra chợ mua thực phẩm dự trữ. Trong khi chờ phục vụ, ông sẽ mở cuốn Đạo đức học. Những người buôn bán biết ông và đưa đẩy ông tới gian hàng của họ.
“Một miếng phô mai ngon, thưa Tiến sĩ – tan chảy ngay trong miệng ngài.”
“Nấm tươi, thưa Tiến sĩ, vừa hái ở rừng về.”
“Tránh đường cho Tiến sĩ, quý bà,” ông hàng thịt la lên. “Làm ơn đừng chắn lối vào.”

Trong những năm đầu bệnh tật, Tiến sĩ Fischelson chiều tối vẫn còn đi tới cái quán café mà các thầy dạy tiếng Hêbrơ và các trí thức khác thường xuyên lui tới. Ông ngồi ở đó đã thành thói quen và chơi ván cờ trong khi uống nửa tách cà phê đen. Đôi khi ông dừng lại ở hiệu sách trên Phố Thánh Giá nơi có thể mua được mọi loại sách và tạp chí cũ giá rẻ. Có lần một cựu học sinh của ông sắp xếp gặp ông tại một nhà hàng vào buổi tối. Khi Tiến sĩ Fischelson đến, ông rất ngạc nhiên khi thấy một nhóm bạn và những người ngưỡng mộ đã buộc ông ngồi ở đầu bàn trong khi họ phát biểu về ông. Nhưng đây là những điều đã xảy ra từ lâu. Giờ đây người ta không còn quan tâm đến ông nữa. Ông đã tự cô lập mình hoàn toàn và trở thành một người bị quên lãng.

Những sự kiện năm 1905 khi đám thanh niên Phố Chợ bắt đầu tổ chức đình công, họ ném bom vào đồn cảnh sát, và bắn vào những người dập tắt cuộc đình công đến nỗi các cửa hàng bị đóng cửa thậm chí vào cả những ngày trong tuần đã lại làm gia tăng sự cô lập của ông. Ông bắt đầu khinh thường mọi thứ liên quan đến Do Thái hiện đại - chủ nghĩa phục quốc Zion, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa vô chính phủ. Những người trẻ tuổi kia dưới mắt ông gần như chẳng là gì ngoài đám đông ô hợp ngu muội với chủ ý phá hoại xã hội, không có xã hội thì không khả dĩ có sự tồn tại nào hợp lí. Ông vẫn thường đọc tạp chí tiếng Hêbrơ, nhưng ông cảm thấy khinh miệt đối với thứ tiếng Hêbrơ hiện đại, nó vốn không có gốc từ Kinh Thánh hay sách luật Mishnah. Cách phát âm của những từ ngữ tiếng Ba Lan cũng đã thay đổi. Tiến sĩ Fischelson kết luận rằng ngay cả những kẻ mang danh lãnh đạo tinh thần đã từ bỏ lí tính và đang rán hết sức để xúi dục cái đám đông ô hợp kia. Đôi khi ông vẫn tới thư viện và lướt qua một số sách lịch sử triết học hiện đại, nhưng ông thấy rằng các giáo sư đã không hiểu Spinoza và trích dẫn ông không đúng, và gán những ý tưởng lộn xộn của họ cho nhà triết học này. Mặc dù Tiến Sĩ Fischelson biết rõ sự giận dữ là một cảm xúc không xứng đáng với người đi theo con đường lí tính, nhưng ông hẳn tức giận, và vội gấp cuốn sách và đẩy nó ra khỏi. “Lũ ngốc,” ông sẽ lẩm bẩm, “Bầy lừa, lũ hãnh tiến.” Và ông thề từ nay trở đi không nhìn lại triết học hiện đại.

IV
Ba tháng một lần, một nhân viên chuyển phát chuyên giao ngân phiếu sẽ mang tới Tiến sĩ Fischelson tám mươi Rúp. Ông trông đợi số tiền trợ cấp hàng quý này vào đầu tháng Bảy nhưng ngày này ngày nọ trôi qua, người đàn ông cao với bộ ria vàng hoe có những nút áo bóng loáng không thấy xuất hiện, tiến sĩ trở nên bất an. Hầu như ông không còn một xu dính túi. Ai biết được - có lẽ cộng đồng Berlin đã huỷ bỏ trợ cấp của ông; có lẽ Tiến sĩ Hildesheimer đã chết, Thượng Đế đã ngăn cấm; sở bưu chính có thể sai sót. Mỗi sự mỗi vật đều có nguyên nhân riêng của nó, Tiến sĩ Fischelson biết. Tất cả được quyết định rồi, tất cả là tất yếu, và một con người lí tính không có quyền lo lắng. Tuy thế, sự lo lắng xâm chiếm đầu óc ông, và cứ vo ve như bầy ruồi. Nếu điều tồi tệ nhất tới và xảy ra với ông, ông có thể tự sát, nhưng rồi ông nhớ rằng Spinoza không tán thành sự tự sát và sánh kẻ tự tước  đi mạng sống với kẻ điên rồ.

Một ngày kia Tiến sĩ Fischelson đi tới một cửa tiệm để mua cuốn tập vở, ông nghe mọi người nói về chiến tranh. Đâu đó ở Serbia, một hoàng tử Áo bị bắn và người Áo đã ra tối hậu thư cho người Serbia. Chủ tiệm, một chàng trai trẻ với bộ râu màu vàng và đôi mắt láo liên màu vàng, loan báo, “Chúng ta sắp có một cuộc chiến tranh nhỏ”, và anh khuyên Tiến sĩ Fischelson nên dự trữ lương thực vì trong tương lai gần rất có khả năng bị đói kém.

Mọi thứ xảy ra quá đỗi nhanh. Tiến sĩ Fischelson thậm chí đã không quyết định liệu có nên bỏ ra bốn xu cho một tờ báo, thì các cáo thị tuyên bố lệnh động viên đã được treo lên rồi. Người ta thấy những người đàn ông đi trên đường phố với thẻ bài tròn bằng kim loại gắn trên ve áo của họ, dấu hiệu cho thấy họ đã bị nhập ngũ. Những người vợ đang khóc lóc dõi theo phía sau họ. Vào một ngày thứ Hai khi Tiến sĩ Fischelson xuống đường để mua một ít lương thực với những đồng kopeck cuối cùng, thì thấy các cửa hàng đóng cửa. Những chủ tiệm và vợ của họ đứng bên ngoài giải thích rằng không làm gì có hàng để bán. Nhưng một số khách hàng đặc biệt nào đó thì được kéo sang một bên và đi vào qua cửa sau. Trên đường phố tất cả hỗn loạn. Cảnh sát vung những thanh gươm đã rút ra khỏi vỏ và đang cưỡi trên lưng ngựa. Một đám đông đứng chật quanh quán rượu, theo lệnh của Nga hoàng, kho rượu whisky của quán đã bị đổ xuống cống.

Tiến sĩ Fischelson tới quán cafe cũ của ông. Có lẽ ông sẽ tìm thấy một số người quen ở đó và người ấy sẽ khuyên bảo ông. Nhưng ông không gặp một người nào quen biết. Sau đó, ông quyết định đi thăm vị rabbi của hội đường nơi ông từng là thủ thư, nhưng người chấp sự với cái mũ chỏm lục giác cho ông biết rằng vị rabbi và gia đình đã đi nghỉ dưỡng ở suối nước khoáng rồi. Tiến sĩ Fischelson có những người bạn cũ khác trong thành phố nhưng ông không tìm thấy ai ở nhà. Bàn chân ông rã rời vì đi bộ quá nhiều; những đốm đen và xanh xuất hiện trước mắt ông và ông cảm thấy chóng mặt. Ông dừng lại chờ cho qua cơn choáng váng. Những người qua đường va vào ông. Một nữ sinh trung học có đôi mắt đen ráng cho ông một đồng xu. Tuy cuộc chiến tranh mới bắt đầu, nhưng những binh sĩ sóng thành hàng tám đã diễu hành trong bộ quân trang đầy đủ - những người đàn ông đầy bụi bậm và cháy nắng. Những bi-đông được buộc ở hai bên và họ đeo các dải tạc đạn trên ngực. Những lưỡi lê súng trường của họ lóe lên ánh xanh lạnh lẽo. Họ hát bằng chất giọng đầy ảm đạm. Cùng với họ là những khẩu đại pháo, mỗi khẩu được tám con ngựa kéo đi; những họng súng mù loà thở ra một nỗi kinh sợ u ám. Tiến sĩ Fischelson cảm thấy buồn nôn. Dạ dày ông nhói đau; ruột ông tưởng như lộn ra ngoài. Mồ hôi lạnh vã ra trên mặt.

‘Mình sắp chết,” ông nghĩ. “Đây là sự kết thúc.” Tuy thế, ông đã cố lết về tới nhà rồi nằm yên trên cái giường khung sắt vừa thở hổn hà hổn hển. Chắc hẳn ông đã thiếp đi lơ mơ vì ngỡ rằng mình đang ở thị trấn quê nhà Tishevitz. Ông bị viêm cổ họng và người mẹ đang bận nhồi muối nóng vào cái vớ dài để đắp quanh cổ ông. Ông nghe thấy tiếng nói chuyện trong căn nhà; có gì đó cảm giác như một ngọn nến và một con ếch cắn vào ông. Ông muốn đi ra ngoài phố nhưng họ không cho vì có một đám rước kiệu Công giáo đang ngang qua. Những người đàn ông mặc áo dài, tay cầm những cái rìu hai lưỡi, đang ngân nga bằng tiếng Latin khi họ rảy nước thánh. Những cây thập giá loé lên; những hình tượng thánh phấp phới trong không trung. Sực mùi hương trầm và thi thể. Bỗng nhiên bầu trời chuyển sang màu đỏ rực rồi cả thế giới bắt đầu bốc cháy. Chuông đổ hồi; mọi người đổ xô chạy điên cuồng. Những bầy chim bay trên đầu oang oác. Tiến sĩ Fischelson giật mình tỉnh dậy. Mình mẩy ông vã mồ hôi và cổ họng giờ đau ran thực sự. Ông cố gắng suy gẫm về giấc mơ dị thường của mình để tìm ra mối liên hệ hợp lí với những gì đang xảy ra với ông và muốn lãnh hội nó qua cái nhìn vĩnh cửu - sub specie eternitatis, nhưng chẳng thấy có chút ý nghĩa nào. Tiến sĩ Fischelson nghĩ: "Chao ôi, não bộ là cái bình chứa sự vô nghĩa. “Quả đất này thuộc về người điên.”

Và một lần nữa ông nhắm mắt; một lần nữa ông chập chờn ngủ; một lần nữa ông lại mơ.


V
Những quy luật vĩnh cửu, hiển nhiên, vẫn còn chưa an bài cho sự kết liễu của Tiến sĩ Fischelson.
                                                                                                               
Có một cánh cửa bên trái căn phòng gác mái của Tiến sĩ Fischelson, và nó mở ra một hành lang tối tăm bừa bộn các loại thùng và giỏ mà bao giờ cũng có mùi hành tây chiên và mùi xà bông giặt. Phía sau cánh cửa này có một bà cô không chồng mà hàng xóm gọi là Dobbe Đen. Cô Dobbe cao, gầy, và đen như một cái xẻng của thợ nướng bánh. Cô có sống mũi gãy và hàng ria mép ở môi trên. Cô có giọng khàn khàn của đàn ông và cô đi giày đàn ông. Suốt nhiều năm cô Dobbe Đen bán bánh mì ổ, bánh mì cuộn, bánh mì vòng bagel lấy từ người thợ làm bánh trước cổng nhà. Nhưng có một ngày cô và người làm bánh cãi nhau và cô đã dời việc buôn bán ra chợ và bây giờ cô chuyên làm món ‘bánh nứt’, đồng nghĩa với bánh trứng nứt. Cô Dobbe Đen không có duyên với đàn ông. Hai lần cô đã đính hôn với những người học việc ở lò bánh, nhưng trong cả hai trường hợp họ rút lại hôn ước. Một thời gian sau đó, cô nhận được hôn ước từ một ông già làm thợ thuỷ tinh khai rằng ông đã li dị, nhưng sau đó sự việc lộ rằng ông vẫn đang có vợ. Dobbe Đen có một người anh họ ở Mĩ, là thợ đóng giày, và nhiều lần cô khoe rằng người anh họ này đang gửi cho cô vé tàu, nhưng cô vẫn ở lại Vácsava. Cô hay bị đám phụ nữ trêu chọc, “Không có hi vọng đâu, Dobbe à. Số chị làm bà cô chết già thôi”. Dobbe cũng đáp lại, “Tôi không có ý định làm nô lệ cho người đàn ông nào cả. Cứ để cho họ thúi rục.”
Chiều hôm đó, Dobbe nhận được thư từ Mĩ. Thường thường cô tới chỗ ông thợ may Leizer để ông đọc thư giúp cô. Tuy nhiên hôm đó Leizer lại đi vắng vì thế Dobbe nghĩ tới Tiến sĩ Fischelson, người mà những người thuê nhà coi là một kẻ bỏ đạo vì ông chẳng bao giờ tới hội đường cầu nguyện. Cô gõ cửa phòng tiến sĩ nhưng không có tiếng trả lời. “Cái ông dị giáo này có lẽ đi vắng rồi,” Dobbe nghĩ thế, tuy nhiên, cô vẫn gõ cửa một lần nữa, và lần này cánh cửa hơi bị xê dịch. Cô xô cửa vào rồi đứng đó khiếp đảm. Tiến sĩ Fischelson nằm thẳng cẳng trên giường vẫn mặc áo khoác; sắc mặt vàng như sáp; cục yết hầu của ông lồi lên cao; chòm râu nhọn chúc lên. Dobble thét lên; cô đinh ninh rằng ông đã chết, nhưng không, thân thể ông còn động đậy. Dobbe nhấc cái li trên bàn, chạy vào hành lang, đổ nước đầy li từ vòi, rồi vội trở lại và vảy nước vào mặt của người đàn ông bất tỉnh. Tiến sĩ Fischelson lắc lắc đầu rồi mở mắt ra.
“Ông bị sao vậy?” Dobbe hỏi. “Có phải bị bệnh?”
“Cảm ơn cô lắm. Tôi không sao.”
“Ông có gia đình không? Để tôi gọi họ.”
“Không có gia đình,” Tiến sĩ Fischelson nói.
Dobbe muốn gọi ông thợ cắt tóc bên kia đường, nhưng Tiến sĩ Fischelson ra dấu ông không muốn trợ giúp của ông thợ cắt tóc. Vì cô Dobbe không ra chợ ngày hôm đó, nên không có cái bánh “nhăn” nào, cô quyết định làm một việc tốt. Cô giúp người bệnh ra khỏi giường và trải tấm ra cho thẳng thớm. Sau đó, cô cởi áo khoác cho Tiến sĩ Fischelson và nấu súp cho ông bằng cái bếp dầu hoả. Mặt trời chẳng bao giờ lọt được vào phòng cô Dobbe, nhưng ở đây những ô vuông nắng lấp lánh trên vách tường đã bạc màu. Sàn nhà sơn đỏ.  Trên đầu giường treo hình một người đàn ông đeo cái diềm xếp nếp quanh cổ và mái tóc dài.  “Một ông già nom thế mà vẫn ăn ở chu đáo và sạch sẽ quá,” Dobbe nghĩ ra vẻ hài lòng. Tiến sĩ Fischelson nhờ lấy giúp cuốn Đạo đức học, và cô đưa nó cho ông có vẻ không hài lòng. Cô chắc mẩm đó là cuốn sách kinh của dân Ngoại đạo. Rồi cô bắt đầu hối hả, xách cái thùng nước vào, lau sàn. Tiến sĩ Fischelson ăn; sau khi ăn uống xong xuôi, ông khoẻ hơn nhiều và Dobbe nhờ ông đọc lá thư.

Ông đọc chậm rãi, mảnh giấy rung rung trong tay ông. Lá thư từ New York, người gửi là anh họ của Dobbe. Một lần nữa hắn viết rằng hắn sắp gửi cho cô một “lá thư thực sự quan trọng” và một tấm vé đi Mĩ. Đến bây giờ, Dobbe biết tỏng cái câu chuyện thuộc làu này và cô giúp ông già giải mã cái mảnh giấy nguệch ngoạc đó. “Hắn nói dối,” Dobbe nói. “Hắn đã quên tôi rất lâu rồi.” Vào buổi tối, Dobbe lại tới. Một ngọn nến trên cái giá đồng đang cháy đặt trên cái ghế đặt cạnh giường. Những cái bóng ửng đỏ rung rinh trên tường và trần nhà. Tiến sĩ Fischelson ngồi tựa lưng trên giường, đọc một quyển sách. Ngọn nến hắt ánh sáng vàng kim trên trán ông và trông như chẻ ra thành hai. Một con chim bay vào cửa sổ rồi đậu trên bàn. Trong một thoáng, Dobbe sợ hãi. Người đàn ông này khiến cô nghĩ đến những phù thủy, đến những tấm gương đen và những xác chết lang thang ban đêm làm phụ nữ khiếp đảm. Tuy nhiên, cô bước vài bước về phía ông và hỏi han: “Thế nào rồi? Ông có đỡ hơn không?”
“Có đỡ hơn một chút, cảm ơn cô”
“Có phải ông thực là một người cải đạo?” cô hỏi mặc dù cũng không chắc lắm cái từ đó nghĩa là gì.
“Tôi, một người cải đạo ư? Không, tôi là một tín đồ Do Thái như bất kì người Do Thái nào khác,” Tiến sĩ Fischelson đáp.

Sự cam đoan của tiến sĩ khiến Dobbe thấy yên tâm. Cô tìm thấy chai dầu hoả và bật lò lên, rồi cô đi lấy một li sữa từ phòng của cô rồi bắt đầu nấu món cháo đặc. Tiến sĩ Fischelson tiếp tục nghiên cứu Đạo đức học, nhưng tối hôm đó ông không thể hiểu được những định lí và luận chứng với nhiều tham chiếu về những tiên đề, định nghĩa cùng những định lí khác. Với bàn tay run rẩy, ông nhấc cuốn sách lên mắt và đọc: “Ý niệm về mỗi cải đổi về nhân thể không liên quan đến tri thức đầy đủ về nhân thể tự thân... Ý niệm về ý niệm của mỗi cải đổi trong tâm trí con người không liên quan đến tri thức đầy đủ về tâm trí con người.”

VI
Giờ đây Tiến sĩ Fischelson chắc chắn rằng ông sẽ chết bất cứ ngày nào. Ông đã làm di chúc để lại tất cả sách và bản thảo của mình cho thư viện hội đường Do Thái. Quần áo và đồ đạc của ông thì để cho Dobbe vì cô đã chăm sóc ông. Nhưng thần chết đã không đến. Thay vào đó sức khoẻ của ông được cải thiện. Dobbe trở lại việc làm ăn ở chợ, nhưng cô thăm ông mấy lần một ngày, nấu súp cho ông, để lại một li trà cho ông, và kể cho ông tin tức về cuộc chiến. Người Đức đã chiếm Kalish, Bendin, và Cestechow, và họ đang diễu hành ở Vácsava. Người ta nói rằng vào buổi sáng yên tĩnh họ có thể nghe được những tiếng đại bác ầm ầm. Dobbe thuật lại rằng số người thương vong nặng nề. “Bom đại bác rơi rụng như ruồi,” cô nói.”"Thật bất hạnh khủng khiếp cho phụ nữ.”

Cô không giải thích được tại sao, nhưng căn phòng gác mái của ông già đã thu hút cô. Cô muốn lấy những cuốn sách có rìa nhũ vàng xuống khỏi kệ, phủi bụi rồi hong chúng trên thành cửa sổ. Cô muốn leo lên mấy cái bậc thang tới khung cửa sổ và nhìn lên trời qua cái kính viễn vọng. Cô cũng thích nói chuyện với Tiến sĩ Fischelson. Ông kể cô nghe về Thuỵ sĩ, nơi ông đã học hành, về những thành phố lớn mà ông đã đi qua, những ngọn núi cao phủ tuyết ngay cả trong mùa hè. Cha ông vốn là một rabbi, ông nói, còn bản thân ông, trước khi là một sinh viên đại học ông đã qua các khoá ở kinh viện Do Thái giáo. Cô hỏi ông biết bao nhiêu ngôn ngữ, thì ra  ông có thể nói và viết tiếng Hơ-brơ, Nga, Đức và Pháp, ngoài tiếng Yiddish. Ông cũng biết tiếng Latin. Dobbe kinh ngạc rằng một người đàn ông có học vấn như thế sao lại sống trong một căn phòng gác mái ở Phố Chợ. Nhưng điều làm cô ngạc nhiên hơn cả là tuy ông mang danh là “Doctor,” nhưng sao lại không thể kê đơn thuốc. “Sao ông không trở thành một bác sĩ thực sự?” cô hỏi ông. “Tôi là một tiến sĩ,” ông trả lời. “Tôi tuyệt nhiên không phải y sĩ.” “Tiến sĩ gì vậy?” “”Tiến sĩ triết học.” Mặc dù cô không có khái niệm nó nghĩa gì, nhưng cô cảm thấy danh vị đó hẳn là rất quan trọng. “Ôi má ơi,”  cô nói, “Làm sao ông lại có được một bộ óc như thế?”

Rồi một buổi tối sau khi cô Dobbe mang cho ông bánh quy và li trà sữa, ông bắt đầu hỏi về lai lịch xuất thân của cô, cha mẹ cô, và tại sao cô chưa kết hôn. Doddbe ngạc nhiên. Chưa từng ai hỏi cô những câu như vậy. Cô kể cho ông nghe câu chuyện của cô bằng một giọng lặng lẽ và ở lại tới mười một giờ. Cha cô là công nhân canh gác ở những cửa hàng thịt kosher. Mẹ cô làm công việc nhổ lông gà trong lò mổ. Gia đình đã sống trong một căn hầm tại Số 19 Phố Chợ. Lên mười tuổi cô đã làm người giúp việc. Người đàn ông mà cô làm việc cho là một kẻ mua bán hàng ăn cắp từ bọn trộm trên quảng trường. Dobbe có người em trai vào quân đội Nga và không bao giờ trở về. Chị gái của cô kết hôn với một người đánh xe ngựa ở quận Praga và đã chết khi sinh con. Dobbe kể về những trận đánh giữa bọn xã hội đen và những nhà cách mạng năm 1905, về gã Itche mù và băng đảng của hắn và việc bọn chúng thu phí bảo kê các cửa hiệu ra sao, về những tên côn đồ đã tấn công các bé trai và bé gái vào những buổi đi dạo chiều thứ bảy nếu không nộp tiền cho sự an ninh. Cô cũng đã nói về bọn ma cô lái chiếc xe tải đi bắt cóc phụ nữ để bán sang Buenos Aires. Dobbe nguyền rủa mấy gã đàn ông thậm chí đã tìm cách dụ dỗ cô vào một nhà chứa, nhưng cô đã trốn khỏi. Cô than phiền về vô số điều xấu xa mà cô phải chịu. Cô đã bị mất trộm mà chính bạn trai cô lấy cắp; một người cạnh tranh đã đổ bình dầu hoả vào giỏ bánh mì vòng bagel của cô; anh họ của cô ta là gã thợ làm giày, đã lừa cô để lấy một trăm Rúp trước khi hắn bỏ sang Mĩ. Hoặc là… Fischelson chăm chú lắng nghe. Ông hỏi cô những câu hỏi, rồi lắc đầu, và cau có.
“Vậy, cô có tin vào Thượng Đế không?” Cuối cùng ông hỏi cô.
“Tôi không biết nữa,” cô đáp. “Còn ông?”
“Có, tôi tin.”
“Thế tại sao ông không đến hội đường?” Cô hỏi.
“Thượng Đế ở khắp mọi nơi,” ông đáp. “Trong hội đường. Ngoài chợ. Trong chính căn phòng này. Bản thân chúng ta là những bộ phận của Thượng Đế.”
“Xin đừng nói những điều như thế,” Dobble yêu cầu. “Ông làm tôi sợ.”

Cô rời khỏi phòng và Tiến sĩ Fischelson đinh ninh rằng cô đi ngủ rồi. Nhưng ông băn khoăn sao cô không chào tạm biệt. ”Có lẽ mình làm cô ta tránh né là do triết lí của mình,” ông nghĩ vậy. Nhưng ngay sau lúc đó ông nghe tiếng bước chân của cô. Cô đi vào mang theo một đống quần áo như người bán hàng rong.
“Em muốn cho ông xem những thứ này,” cô nói. Chúng là đồ giá trang của em.” Rồi cô bắt đầu trải ra, trên cái ghế, những chiếc váy – len, lụa, nhung. Lần lượt cô ướm từng bộ trang phục lên người. Cô liệt kê từng món trong giá trang – gồm cả đồ nội y, giày, vớ.
“Em không lãng phí đâu”, cô nói. “Em là người tiết kiệm. Em có đủ tiền để sang Mĩ.”

Và rồi cô yên lặng và khuôn mặt đỏ bừng. Khoé mắt cô liếc nhìn Tiến sĩ Fischelson, rụt rè, như đang dò hỏi, cơ thể của Tiến sĩ Fischelson bỗng nhiên bắt đầu run lên như thể ông bị ớn lạnh. Ông nói, “Rất đẹp, những món ấy rất hợp, rất đẹp.” Cặp lông mày của ông nhướng lên rồi ông vuốt chòm râu bằng hai ngón tay. Một nụ cười buồn bã xuất hiện trên chiếc miệng không còn răng và đôi mắt lớn của ông rập rờn, nhìn đăm đăm vào khoảng xa xa qua khung cửa sổ gác mái, cũng mỉm cười buồn bã.

VII
Cái ngày cô Dobbe Đen tới văn phòng của vị rabbi và thông báo rằng cô sắp kết hôn với Tiến sĩ Fischelson, người vợ của rabbi ngỡ cô ta khùng. Nhưng tin tức đã tới tai ông thợ may Leizer, rồi lan tới lò bánh mì cũng như những cửa hiệu khác. Cũng có những người cho rằng “bà cô già” có số may mắn; vị tiến sĩ, họ nói, có khối tiền. Còn có những người khác cho rằng ông là một tay suy đồi bị kiệt sức và hẳn sẽ truyền bệnh giang mai sang cô. Mặc dù tiến sĩ Fischelson đã cương quyết rằng lễ cưới sẽ làm vừa nhỏ vừa yên tĩnh, nhưng đông đảo khách đã tụ tập trong các gian phòng của vị rabbi. Những người phụ việc ở lò bánh thường thường họ đi chân đất và mặc đồ lót, đầu đội bao giấy, bây giờ họ đóng bộ com lê màu sáng, mũ cói, giày màu vàng, đeo ca vát sặc sỡ, và họ mang theo bánh kem và những cái chảo đầy bánh quy. Họ thậm chí xoay xở được một chai vodka mặc dù rượu đang bị cấm ngặt trong thời chiến. Khi cô dâu và chú rể bước vào phòng của vị rabbi, tiếng rì rầm trỗi  lên từ đám đông. Đám phụ nữ không thể tin vào mắt họ. Người đàn bà họ nhìn thấy không phải là người mà họ biết. Dobbe đội chiếc mũ rộng vành trang trí bằng những quả anh đào, nho, và mận, chiếc váy cô mặc bằng lụa trắng có gắn cái đuôi váy dài thượt; cô đi giày cao gót màu vàng kim, và chiếc cổ gầy của cô đeo một chuỗi ngọc trai giả. Cũng chưa phải là hết: những ngón tay cô lấp lánh những chiếc nhẫn loé lên và đá lấp lánh. Khuôn mặt cô phủ tấm mạng. Trông cô như một cô dâu giàu có cử hành hôn lễ ở Thị Sảnh Vienna. Những người làm việc lò bánh đó huýt sáo trêu chọc. Còn về Tiến sĩ Fischelson, ông mặc áo khoác đen và đi giày mũi to. Gần như ông không thể bước đi được; Dobbe dìu ông. Khi từ ngưỡng cửa ông nhìn thấy đám đông, ông sợ hãi và muốn rút lui, nhưng gã chủ cũ của Dobbe đã tới gần nói “Tiến vào đi, tiến vào đi, chú rể. Đừng bẽn lẽn. Bây giờ tất cả chúng ta đều là anh em.”

Nghi lễ làm theo luật Do Thái. Vị rabbi, mặc cái áo choàng vải satanh, viết bản hôn ước và sau đó có cô dâu và chú rể chạm vào tấm khăn tay của ông để tỏ dấu hiệu của sự đồng ý; rồi vị rabbi lau ngòi bút lên cái mũ chỏm. Mấy người canh gác ngoài phố được gọi vào để đủ số người khiêng cái lọng che. Tiến sĩ Fischelson khoác cái áo choàng trắng như một nhắc nhở về cái chết và Dobbe bước quanh ông bảy lần theo như phong tục. Ánh sáng từ những cây nến thắt nơ lung linh trên tường. Những cái bóng dập dờn. Sau khi rót rượu vang vào cái chén, vị rabbi cất lời chúc phúc bằng thanh điệu ủ ê. Dobbe thốt lên tiếng khóc nấc. Trong khi những phụ nữ khác, họ rút khăn tay ra rồi đứng cầm trong tay, nhăn mặt. Khi đám con trai của lò bánh mì bắt đầu xì xầm những lời châm chọc với nhau, vị rabbi đưa ngón tay lên môi thì thầm, “Eh flu oh,” như ra dấu không được nói chuyện. Đã đến lúc đeo chiếc nhẫn cưới vào ngón tay cô dâu, nhưng bàn tay của chú rể bắt đầu run run và ông gặp khó khăn định vị ngón trỏ của Dobbe. Việc tiếp đến, theo phong tục, là đập vỡ cái li rượu sau khi uống, nhưng mặc dù tiến sĩ Fischelson đá đá cái li vài lần, nó vẫn không chịu bể. Đám thiếu nữ cúi gầm rồi véo vào nhau cười khúc khích. Cuối cùng một người giúp việc ở lò bánh đã đạp cái li dưới gót giầy làm nó vỡ nát. Thậm chí vị Rabbi cũng không nén được nụ cười. Sau nghi lễ, khách uống vodka và ăn bánh quy. Gã chủ cũ của Dobbe tới bên Tiến sĩ Fischelson và nói, “Mazel tov (Chúc mừng), chú rể. Chúc ông may mắn như vợ của ông.” “Cảm ơn, cảm ơn,” Tiến sĩ Fischelson lẩm bẩm, “nhưng mình không mong chờ sự may mắn nào cả.” Ông sốt ruột được về lại căn phòng gác mái càng sớm càng tốt. Ông cảm thấy bao tử bị quặn và tức ngực. Khuôn mặt ông trở nên tái xanh. Bỗng nhiên, Dobbe nổi cơn tức giận. Cô giựt phắt tấm mạng che mặt và nói to với đám đông, “Các người đang cười cái gì hở? Đây không phải là màn trình diễn.” Và không thèm nhấc cái tấm che trong đó có những gói quà tặng, cô cùng chồng trở về căn phòng của họ trên tầng năm.

Tiến sĩ Fischelson nằm xuống cái giường đã được sửa soạn tinh tươm và bắt đầu đọc Đạo đức học. Dobbe về lại phòng của cô. Bác sĩ giải thích cho cô rằng ông đã già rồi, ông bị bệnh và không còn sức. Ông không hứa hẹn điều gì với cô. Dẫu vậy cô đã quay lại, mặc bộ đồ ngủ bằng lụa, đi đôi dép có ngù len, và tóc để xoã xuống vai. Trên khuôn mặt cô nở một nụ cười, vừa bẽn lẽn vừa do dự. Tiến sĩ Fischelson run run và cuốn Đạo đức học rơi khỏi tay. Ngọn nến tắt. Dobbe sờ soạng tìm Tiến sĩ Fischelson trong bóng tối rồi hôn lên miệng ông. “Chồng yêu quý của em,” “Chúc mừng.”

Những gì xảy ra vào đêm ấy có thể gọi là phép lạ. Nếu Tiến sĩ Fischelson không bị thuyết phục rằng mọi điều xảy ra đều theo những quy luật của tự nhiên, hẳn là ông nghĩ rằng Bobbe Đen đã mê hoặc ông. Những sức mạnh ngủ yên bấy lâu đã thức dậy trong ông. Tuy chỉ có một hớp rượu chúc phúc, ông đã như thể bị say sưa. Ông đã hôn Dobbe và nói với nàng về tình yêu. Những trích dẫn văn chương từ lâu bị bỏ quên của Klopstock, Lessing, Goethe dâng trào trên môi ông. Những cơn co thắt và đau đớn giờ bỗng biến đâu mất. Ông ôm choàng lấy Dobbe, ghì thật chặt vào mình, và trở lại làm một người đàn ông như thuở thanh xuân. Dobbe đã ngất đi vì vui sướng; nức nở, cô lẩm bẩm những điều gì đó bằng thứ tiếng lóng của Warsaw mà ông không hiểu. Sau đó, Tiến sĩ Fischelson rơi vào một giấc ngủ thật sâu mà những chàng trai trẻ đều như thế. Ông đã mơ thấy mình đang ở Thuỵ Sĩ và đang leo núi – đang chạy, đang rơi, đang bay. Lúc tảng sáng ông mở mắt; dường như có ai đó thổi vào tai ông. Dobbe đang ngáy. Tiến sĩ Fischelson lặng lẽ ra khỏi giường. Trong chiếc áo ngủ dài, ông tới cửa sổ, bước lên bậc thang và phân vân nhìn ra ngoài. Phố Chợ đang ngủ, đang thở bằng sự tĩnh mịch sâu thẳm. Những ngọn đèn khí đốt lập loè. Những cánh cửa chớp màu đen của các cửa hiệu được cài chặt bằng những thanh sắt. Một làn gió mát thổi. Tiến sĩ Fischelson nhìn lên bầu trời. Khung vòm đen gieo vãi đầy đặc sao - có những ngôi sao màu xanh lá, màu đỏ, màu vàng, xanh dương; có những ngôi sao lớn sao nhỏ, có những ngôi nhấp nháy đều đặn. Có những ngôi tụ tập thành những nhóm đông đúc và có những ngôi lẻ loi. Từ nơi tầng trời cao, rõ ràng, cái sự kiện này thật khó được chiếu cố tới: rằng có một Tiến sĩ Fischelson nào đó vào những ngày cuối đời tàn tạ đã kết hôn với một người phụ nữ nào đó có tên là Dobbe Đen. Thậm chí nhìn từ trên cao xuống thì cuộc Đại Chiến cũng chẳng là gì ngoài một trò chơi nhất thời của những phương thức. Vô vàn những định tinh tiếp tục du hành theo những quỹ đạo định sẵn trong không gian vô biên. Những tuệ tinh, hành tinh, vệ tinh, tiểu hành tinh duy trì vòng quanh những trung tâm toả sáng. Những thế giới được sinh thành và chết đi theo những biến động vũ trụ. Trong cõi hỗn mang của tinh vân, vật chất nguyên thủy đã được hình thành. Lần này, một ngôi sao vỡ thoát ra và quét ngang bầu trời, để lại một vệt lửa cháy. 

Đó là vào tháng Tám khi có những trận mưa sao băng. Vâng, thực thể thần thánh được mở rộng và vô thuỷ vô chung; đó là cái tuyệt đối, bất khả phân, vĩnh cửu, vô kì hạn, và vô hạn là những thuộc tính của nó. Những làn sóng và những bong bóng của nó nhảy múa trong cái lò cừ vũ trụ, khát khao biến hoá, theo chuỗi bất tuyệt của nhân và quả, và ông, Tiến sĩ Fischelson, với số phận không thể tránh khỏi của mình, là một phần tử của chúng. Tiến sĩ nhắm mí mắt lại và để cho làn gió nhẹ làm mát mồ hôi trên trán và phất phơ chòm râu. Ông hít thật sâu bầu không khí nửa đêm về sáng, tựa đôi tay run rẩy trên thành cửa sổ và thì thầm: ”Spinoza linh thánh, hãy tha thứ cho tôi. Tôi đã trở thành một kẻ ngốc.”


Spinoza Phố Chợ tác giả Isaac Bashevis Singer -Hà Vũ Trọng dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vui lòng viết Tiếng Việt. Có dấu.
Nhận xét luôn luôn được kiểm tra trước khi xuất bản. :). Vì vậy bạn đừng cố SPAM
Cảm ơn bạn