Search

30.8.24

BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI

BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI 


Dịch Việt: Tỳ khưu Tâm Hạnh, Phật tử Tâm Cảnh

Lời người dịch:
Bát Chánh đạo, giáo pháp căn bản và quan trọng nhất cho sự tu tập của Phật giáo, chúng tôi được học từ những năm Trung cấp Phật học nhưng chỉ thuộc lòng, hiểu mơ hồ và chưa từng được dạy về cách thực hành. Thế nên, với chúng tôi thời ấy, Bát Chánh Đạo vẫn là kiến thức Phật học phổ thông, không cần thiết. Sau này, may mắn được tiếp cận, học và thực hành bát chánh đạo qua những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế tôn, tôi nhận ra rằng một người Phật tử không thể có sự tu tập đúng hướng đưa đến chấm dứt đau khổ nếu không được học đúng, thực hành đúng bát chánh đạo. 

BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI
BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ BHIKKHU BODHI 



Từ đó, tôi nuôi hy vọng giới thiệu cho Phật tử Việt Nam một cuốn sách tóm tắt về Bát Chánh Đạo nhưng đầy đủ về pháp học, pháp hành và pháp thành như Đức Thế tôn đã dạy nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được. 

Qua những năm tháng làm công tác giảng dạy Phật học ở các trường Phật học Việt Nam, phiên dịch Hán tạng ra Việt ngữ và rồi được tiếp cận sách Phật học của các nhà Phật học phương Tây, tôi vẫn chưa thực hiện được hoài bão này. Biết được nguyện vọng của tôi, thầy Tâm đạo (Eric, vị sư người Mỹ) giới thiệu sách “The Noble Eightfold Path _ Way to the End of Suffering” của Ngài Bhikkhu Bodhi (xem phần giới thiệu về tác giả) với nhã ý tôi sẽ giới thiệu cho Phật tử Việt Nam.

Sau khi xem qua, tôi nhận ra đây chính là cuốn sách đúng với nguyện vọng của mình nhưng chưa làm được. Qua tác phẩm này, với sự tinh thông pháp học về Phật giáo nguyên thủy và kinh nghiệm hành trì, tác giả đã trình bày rất cô đọng nhưng đầy đủ, chính xác và rõ ràng ba lĩnh vực pháp học, pháp hành và pháp thành của Bát Chánh Đạo. Tác phẩm này có thể là cẩm nang gối đầu cho bất cứ người nào thật sự muốn đi vào con đường tu tập để chấm dứt khổ ngay trong thế giới rối ren của kiếp sống này. 

Tôi giới thiệu sách với anh Tâm Cảnh _ Nguyễn Ngọc Cảnh (một Phật tử quy y Tam bảo và học Phật pháp với sự hướng dẫn của tôi). Khi biết anh Tâm Cảnh nhận ra giá trị sách này, tôi đề nghị dịch với tiêu chí “dịch để học”. Anh nhiệt tình nhận lời và chúng tôi cùng nhau hợp tác dịch tác phẩm suốt trong thời gian dịch Covid-19 từ năm 2020 đến 2021. Bản dịch hoàn tất và sửa xong tháng 03 năm 2021 _ Phật lịch 2565. 

Tuy cùng dịch chung nhưng cá nhân tôi chịu trách nhiệm về nội dung và Việt ngữ Phật học dùng trong bản dịch này. Trong quá trình dịch, tôi đã tham khảo các bản Việt dịch Nikàya, nhất là dùng từ ngữ Phật học trong bản dịch Thắng pháp tập yếu luận của Ngài Trưởng lão Thích Minh Châu cho các chương Chánh niệm và Chánh định. Ngoài ra, tôi tham khảo về Tứ niệm xứ trong sách Pháp hành thiền tuệ của Ngài Trưởng lão Hộ Pháp, chùa Bửu Long. 

Tôi không quên thành kính tri ân Ngài Trưởng lão Hộ Nhẫn, chùa Thiền Lâm, Huế và Ngài Trưởng lão Viên Minh, chùa Bửu Long. Hai vị thầy đã tiếp nhận và hướng dẫn tôi được tiếp cận và tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật. Bản dịch này là pháp cúng dường đến hai Ngài, các vị thầy và các pháp hữu đã và đang cùng tôi tu học theo những lời dạy của Đức Phật.

Chúng tôi cảm ơn chị Nguyên Nhật Trần Như Mai đã giới thiệu chúng tôi với Ngài Bhikkhu Bodhi để xin phép dịch và in tác phẩm này. Sau cùng, chúng tôi chân thành tri ân các Phật tử, thân quyến, bạn bè đã hỗ trợ tinh thần và vật chất để bản dịch này được xuất bản. Chúng tôi hy vọng bản dịch này góp một phần tài liệu nhỏ cho các Phật tử Việt Nam đang có nguyện vọng tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế Tôn để chấm dứt khổ ngay trong kiếp sống này. 

Chúng tôi cũng mong rằng một ngày không xa những loại sách này được giới thiệu trong các trường Phật học ở Việt Nam. 
Mùa Phật đản 2565_ năm 2021 Mindful Way Buddhist Meditation Society Tu viện Đạo Tâm 10164 Gramercy Pl Riverside, CA 92503, USA . 

ghi chú: 172




Xem thêm: 

29.8.24

Tổng hợp các câu hỏi đáp bài giảng từ sư thầy Tâm Hạnh

Tổng hợp các câu hỏi đáp từ sư thầy Tâm Hạnh


Bài 01: Thế nào là giác ngộ và giải thoát theo kinh tạng Nguyên thủy.

Tổng hợp các câu hỏi đáp từ sư thầy Tâm Hạnh

Bát Chánh Đạo – Con đường đưa đến chấm dứt khổ đau Bhikkhu Bodhi
Dịch Việt Tỳ khưu Tâm Hạnh, Phật tử Tâm Cảnh


Chứng đắc ở đây là giác ngộ và giải thoát.
Để hiểu thế nào về khái niệm giác ngộ và giải thoát, chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ các câu hỏi sau:
1/ Giác ngộ và giải thoát hay giải thoát và giác ngộ?
Câu trả lời, có giác ngộ mới giải thoát như có hiểu biết mới không bị lệ thuộc.
2/ Giác ngộ và giải thoát có tùy thuộc dân tộc, màu da, giới tính, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh, xuất gia hay tại gia, thời gian học và tu tập theo giáo pháp ngắn dài không?
Câu trả lời là không.
Theo những sự việc, câu chuyện được ghi lại trong kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta không khó nhận ra sự giác ngộ và giải thoát của các đệ tử của Đức Phật hoàn toàn không tùy thuộc vào dân tộc, màu da, giới tính, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh, xuất gia hay tại gia, thời gian học và thực hành giáo pháp ngắn hay dài.
3/ Như vậy, sự giác ngộ và giải thoát của mỗi cá nhân y cứ vào đâu?
Câu trả lời, từ những bài kinh trong chương X (sách Hợp Tuyển lời Phật dạy theo kinh tạng Pali), chúng ta có thể thấy họ giác ngộ và giải thoát từ phát nguyện nhận và giữ Tam quy, Năm điều, học đúng giáo pháp, cụ thể là Tứ Thánh Đế, 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo, nỗ lực vào chính bản thân, y cứ vào pháp ở trên, không y cứ vào ai cả.
4/ Như thế, họ đã giác ngộ những gì và giải thoát những gì?
Câu trả lời là,
A. Họ nhận ra, giác ngộ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ và không còn lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng, được gọi là bậc thánh Dự lưu hay Nhập lưu, vĩnh viễn không còn bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A tu la. Trong đời này, nếu chưa giải thoát sinh tử luân hồi, họ chỉ còn trở lại Dục giới tối đa 7 lần thì chấm dứt luân hồi.
B. Không còn thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, họ nhận ra, giác ngộ tham và sân, giải thoát một phần tham và sân, được gọi là bậc Nhất lai. Nếu chưa giải thoát luân hồi sinh tử trong đời này thì họ chỉ còn trở lại Dục giới một lần và chấm dứt luân hồi sinh tử.
C. Họ giác ngộ và giải thoát hoàn toàn thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân, được gọi là bậc Bất hoàn. Nếu ngay trong đời này, họ chưa giải thoát luân hồi sinh tử thì sau khi qua đời, sinh đến cõi Bất hoàn thiên và sẽ chấm dứt luân hồi sinh tử tại đó.
D/ Không còn 5 kiết sử trên, họ nhận ra giác ngộ về sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn vi tế, trạo hối, vô minh và không còn lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng thì được gọi là bậc A la hán hay Vô Sinh, ngay trong đời này chấm dứt hoàn toàn luân hồi sinh tử.
5/ Bằng cách gì họ nhận ra 10 loại kiết sử trên?
Câu trả lời, bằng cách học và hiểu đúng về chúng trên lý thuyểt, tiếp tục kiên trì chiêm nghiệm nhận ra chúng ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt của chính mình.
6/ Bằng cách gì không lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng?
Câu trả lời, học đúng lý thuyết và tiếp tục kiên trì thực hành Bát Chánh Đạo ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt của chính mình.
7/ Tại sao trong kinh tạng, Đức Phật thường dạy các Tỳ kheo hành thiền, giữ nhiều giới luật? Với hoàn cảnh sinh hoạt của người tại gia thì làm sao thực hành?
Câu trả lời, đây chính là vấn đề đã có nhiều ngộ nhận, cần hiểu cho đúng về tu tập trong sinh hoạt hằng ngày giữa người xuất gia và tại gia.
Với người xuất gia thì sinh hoạt hằng ngày của họ là học giáo pháp, hành thiền, giữ giới luật theo cộng đồng của họ vì không phải sinh hoạt, kinh doanh cho gia đình, xã hội, không lo về cơm áo gạo tiền.
Người tại gia thì sinh hoạt của họ là phải kinh doanh sinh kế với cơm áo gạo tiền cho bản thân, gia đình, xã hội. Thế nên, họ học và thực hành giáo pháp ngay trên sinh hoạt của họ. Nếu người tại gia tập trung thời gian ngồi thiền, giữ luật thì làm sao phục vụ bản thân, gia đình, xã hội và sẽ đưa đến gia đình tan vỡ.
Đức Phật dạy 4 pháp đưa đến hạnh phúc cho người tại gia trong hiện tại là: có nghề nghiệp làm ăn, giao du bạn tốt, biết quản lý tài sản làm ra, biết cân đối thu chi trong sinh hoạt; và cho tương lai là: tận tín Tam bảo, thọ trì Năm điều học, bố thí cúng dường, học giáo pháp, hiểu Tứ Thánh Đế trong đời sống (Tín, giới, thí, văn, tuệ).
Nếu chịu khó đọc kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta sẽ thấy Đức Phật không chú trọng dạy hành thiền, giữ luật cho người tại gia như cho các vị Tỳ kheo mà dạy họ tu tập ngay trên sinh hoạt của họ. Sau khi gặp Đức Phật, nghe pháp, một người Phật tử tại gia vẫn sinh hoạt như trước nhưng với Ba quy y, Năm điều học và nhận thức đúng pháp.
Thế nên, nếu người xuất gia mà không sinh hoạt trên trách nhiệm học giáo pháp, hành thiền mà làm những việc như kinh doanh, xây dựng... ; người tại gia cư sĩ lại cố gắng tu tập, hành thiền, giữ luật theo sinh hoạt của người xuất gia thì đã đi lạc đường.
Như thế, tuy khái niệm về sự giác ngộ và giải thoát thật khó khăn và xa lạ với chúng ta nhưng qua kinh tạng Nguyên thủy thì chúng đang ở ngay dưới chân chúng ta nếu chúng ta học đúng, hiểu đúng, chiêm nghiệm thực hành ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ từ sinh hoạt bình thường của chính mình mà không cần làm gì thêm nữa, thì sự giác ngộ và giải thoát đang có mặt với chúng ta.

Bài 2: Nhận ra, xử lý 5 hạ phần kiết sử bằng Bát Chánh Đạo.


Câu hỏi: Thưa thầy, là một Phật tử với đời sống đầy lo toan, bận rộn, trách nhiệm, bổn phận với công việc cho bản thân, gia đình, xã hội; như vậy, bằng cách cụ thể gì chúng con có thể nhận ra 5 hạ phần kiết sử (giác ngộ) và thực hành bằng Bát Chánh Đạo để không còn lệ thuộc chúng (giải thoát)?
Trả lời:
1/ Đầu tiên, chúng ta phải học và hiểu thật đúng ý nghĩa nội hàm (connotation) trên lý thuyết về 5 hạ phần kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân; về tám thành tố của Bát Chánh Đạo.
2/ Tạm thời gát các sinh hoạt theo tín ngưỡng tôn giáo qua một bên, kể cả việc cố gắng ngồi thiền, các hình thức sinh hoạt như những người xuất gia. Không cần làm thêm bất kỳ sự tu tập gì có hình thức.
3/ Giữ Ba quy y và Năm điều học trong sạch. Nếu vi phạm thì tự can đảm nhận ra và tự sám hối.
4/ Từ khi thức dậy, đánh răng, ăn sáng, làm việc... cho đến khi đi ngủ, luôn luôn lặng lẽ ghi nhận và quan sát hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình (không cần cố gắng gì cả).
Về lời nói, hành động:
Khi nhận ra lời nói, hành động nào sẽ phát ra hay đang nói, đang làm từ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham hay sân thì dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng ngăn lại. Nếu đã nói, đã làm thì dùng chánh kiến, chánh tư duy nhận ra các nghiệp ác đã nói, đã làm. Chỉ cần nhận ra và quan sát chúng, không cần làm thêm gì cả vì chúng tự sinh tự diệt theo ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
Về ý nghĩ:
Khi nhận ra ý nghĩ bất thiện nào phát sinh từ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham, sân thì dùng chánh tinh tấn dừng lại, dùng chánh niệm, quán tâm hay quán pháp trên Tứ Niệm Xứ để quan sát, nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên chúng, dùng chánh định để hóa giải, ly dục ly bất thiện pháp, không còn lệ thuộc.
5/ Chú ý quan trọng, khi thực hành không cố gắng gì cả, không mong kết quả gì cả, ngay khi nhận ra, quan sát chúng và xử lý bằng Bát Chánh Đạo thì chính là kết quả.
Bắt đầu và tiếp tục, tiếp tục bắt đầu...

Bài 3: Học và thực hành Phật học, Phật tử nên học và thực hành những gì?


Câu hỏi: Thưa thầy, chúng con được các bạn đạo giới thiệu, khuyến khích nên:
Học Duy thức học,
Học Vi diệu pháp,
Đi sang Miến Điện học và hành thiền.
Đến các trường thiền tham dự các khóa thiền Tứ Niệm Xứ... dài ngày.
Gặp các vị thầy nổi tiếng để khai ngộ vv và vv...
Thưa thầy, chúng con rất hoang mang, một phần vì nhiều thông tin khác nhau, không biết nên học gì, đi đến đâu; một phần vì hoàn cảnh hiện nay phải lo cho bản thân, cha mẹ, chồng, vợ, con nên không có thời gian để học các môn học đó và cũng chưa rời khỏi gia đình được; một phần điều kiện kinh tế hiện nay và thời gian của chúng con chưa cho phép học hay làm theo những giới thiệu trên, dù có muốn. Xin thầy có thể gợi ý trong lúc này, chúng con nên làm gì?
Trả lời:
Chào các bạn. Tôi đã từng học và dạy cho các tăng ni các môn học trên ở trường Phật học nhưng mục đích học để có kiến thức, làm bài tập, thi cử, lấy bằng cấp chứ chưa biết vị nào có thực hành và có kết quả hay không.
Tôi cũng đã từng ở trường thiền ở Miến Điện nhưng chỉ học được cách tổ chức rất hay của họ. Nếu chưa có căn bản đúng về pháp học, nhất là kiến thức đúng về Tứ Niệm Xứ, 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo mà vào sinh hoạt ở các trường thiền thì cũng như đi một kỳ an dưỡng với sinh hoạt mang hình thức tôn giáo. Những nơi đó, thường thì, họ không dạy pháp học mà chỉ thực hành, trình pháp. Trong môi trường "KHÔNG ai làm phiền mình, yên lặng, không tiếp xúc, không làm việc gì cả, chỉ thiền hành và thiền tọa" thì những ngộ nhận về tu chứng sẽ dễ dàng xảy ra cho thiền sinh. Nếu không học kiến thức về lái xe thì làm sao tập lái xe cho đúng, ngoài cảm giác thích thú ngồi trong xe. Chưa nói đến, với cái nhìn của cá nhân, tôi tự hỏi, một đất nước mà nhìn ở đâu cũng thấy chóp tháp chùa, tăng ni khắp nơi, trường thiền khắp nơi, những người lãnh đạo đều là Phật tử, đã từng sinh hoạt trong các môi trường Phật giáo nhưng tại sao tình hình chính trị trên đất nước của họ rất phức tạp, bất ổn.
Thế nên, tôi cũng chẳng biết nên khuyên các bạn học gì, theo ai. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nơi để trả lời các câu hỏi trên. Chúng ta xem lại Đức Phật đã giới thiệu giáo pháp của Ngài cho chúng ta như thế nào.
Nguyên văn Pāli: "Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccttam veditabbo viññūhī 'ti."
Từ ngữ Pāli _ Việt
Svākkhāta: giảng dạy hoàn hảo, trọn vẹn.
Akkhati: giảng dạy
Dhamma: giáo pháp
Bhagavato: Đức Thế Tôn
Sandiṭṭhika: ngay ở đây, thiết thực
Akālika: ngay hiện tại, phi thời gian.
Ehipassika: hãy tự nhận ra, tự đến để thấy, mời gọi đến để nhận ra.
Passati: thấy, nhận ra
Opanāyika: hướng thượng.
Paccattam: tự mình, mỗi người, cá nhân
Veditabba: nhận thức, hiểu rõ
Viññū: người hiểu biết, người có trí.
Đoạn kinh văn trên, có nhiều bản dịch Việt, lấy ý chung, có thể tạm dịch,

" Các pháp mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng một cách hoàn hảo. Pháp ấy đang có ngay ở đây, ngay trong hiện tại, hãy tự thấy ra, nhận ra, có khả năng hướng thượng, người có hiểu biết tự mình nhận ra."
Bản dịch Anh ngữ của ngài Boddhi:
"The Buddha says that the Dhamma, the ultimate truth of things, is directly visible, timeless, calling out to be approached and seen... (He says further that it is always available to us, and that the place where it is to be realized is within oneself)."
(The Noble Eightfold Path _ page 75. Bản dịch Việt Bát Chánh Đạo của chúng tôi trang 157).
Theo đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy, Đức Phật dạy rằng, giáo pháp mà Ngài đã dạy "luôn luôn đang có mặt chung quanh" chúng ta, đang mời gọi chúng ta thấy, nhận ra, không cần đi đâu cả.
Bước đầu, các bạn có thể học đúng trên lý thuyết về Tứ Thánh Đế, 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ là những giáo pháp căn bản do Đức Phật dạy làm nền tảng cho tất cả các truyền thống, tông phái Phật giáo đã và đang có mặt trên thế giới.
Chúng ta học các giáo pháp trên với 3 bước.
Bước 1, thuộc và hiểu đúng ý nghĩa căn bản của chúng theo từ vựng, nên tham khảo ý nghĩa theo Sanskrit và Pāli, thêm English cho rõ. Nếu được, các bạn nên tra cứu ở các từ điển Phật học đáng tin cậy. Nên tham khảo các vị thầy "có chuyên môn" về lĩnh vực này.
Bước 2, nhận ra các giáo pháp ấy ngay trong đời sống của chính mình; giống như Đức Phật đang dạy trực tiếp cho mình.
Bước 3, chiêm nghiệm, áp dụng kiến thức về giáo pháp đã học ngay trên sinh hoạt bình thường hằng ngày của chính mình mà KHÔNG CÓ bất cứ hình thức tôn giáo, giáo điều, khuôn mẫu gì cả ĐỂ NHẬN RA PHÁP.
Ví dụ, NGAY trên sinh hoạt của CHÍNH MÌNH, các bạn có thể nhận ra PHÁP như là tham, sân, si, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, thân, thọ, tâm, pháp, yếu tố nào trong 37 phẩm trợ đạo, đế nào trong Tứ Thánh Đế, thành tố nào trong Bát Chánh Đạo NGAY KHI các bạn ĐANG thấy, nghe, ăn, ngửi, tiếp xúc, nói, hành động, suy nghĩ vv.vv...
Đây chính là "nhờ vào giáo pháp, tự mình nhận ra pháp, thấy pháp ngay ở đây và bây giờ".
Đức Phật dạy: "Ai thấy Pháp là thấy Ta. Ai thấy Ta là thấy Pháp."
Mà, tham, sân, si cũng là Pháp.
Chúc các bạn học và nhờ giáo pháp, tự mình nhận ra pháp ngay trong chính sinh hoạt của mình mà không cần đi tìm ở đâu cả.

Bài 4: Học và thực hành giáo pháp với tập thể hay tự mình.


Chào các anh chị trong lớp học. Sáng nay, có bạn nhắn tin hỏi tôi với câu hỏi trên. T xin chia sẻ theo ý kiến riêng của cá nhân.
Về học Phật học, chúng ta nên học tập thể, qua trường lớp hay với các vị thầy chuyên môn về các môn học Phật học mà chúng ta cần học nhưng về tu tập thì hoàn toàn theo cá nhân. Mỗi người chúng ta đều có một bài toán đời với thất tình lục dục, tình tiền vui khổ với hoàn cảnh khác nhau theo cuộc sống của riêng ta. Để tìm ra đáp án cho cuộc đời riêng mình theo công thức mà Đức Phật đã dạy nhưng không ai giống ai cả thì không thể tập trung vào một chỗ, cùng giải theo một cách, với những bài toán đời khác nhau. Có nghĩa là, dùng công thức giống nhau nhưng giải các bài toán khác nhau, đáp án khác nhau thì không thể tập trung lại và làm giống nhau.
Hiện nay, trên mạng xã hội, có quá nhiều giảng sư về đủ thể loại bộ môn về Phật pháp cả pháp học và pháp hành. Trăm hoa đua nở.

Chúng ta có thể tạm chia tất cả trăm hoa vào ba nhóm.

1/ Nhóm theo dạng thuyết pháp chung chung kiểu đưa đạo đức tâm lý lồng vào thơ văn, ca hát, câu chuyện vui, hài hước nhưng không chuyên môn về Phật học, không chiều sâu, không mang kiến thức nghiên cứu, trường lớp về Phật học mà chủ yếu xoa dịu tâm lý quần chúng, đáp ứng được nhu cầu giảm stress, làm người nghe thích thú, vui, có cảm giác giải tỏa tâm lý trong nhất thời, được gãi ngứa, như đi xem nghe một buổi ca nhạc hay diễn thuyết mang hình thức tôn giáo. Nhóm này được đa số quần chúng theo, ngưỡng mộ. Tuy cách thuyết giảng của họ theo mặt nổi, theo cách đạo đức tâm lý học, không có chiều sâu về Phật học nhưng giá trị ở chỗ đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, niềm vui nhất thời cho số đông không cần học hay thực hành Phật học để giải quyết triệt để các nỗi khổ đau. Tuy nhiên, sau những niềm vui, sự thoải mái nhất thời đó, từ hữu ái, hoại khổ xuất hiện.

2/ Nhóm theo dạng thuyết giảng bằng kiến thức theo sách vở Phật học, từ kinh điển, từ Abhidhamma hay từ sách theo truyền thống của họ, nhưng những kiến thức Phật học đó thuộc về trường lớp, chuyên môn, hàn lâm, dành cho nghiên cứu, cho tăng ni, khó hiểu và xa lạ với đời sống thực tế của quần chúng. Người dạy và người học vẫn nghĩ là hiểu nhưng thật sự họ chỉ tin vì có ai biết rõ các tâm đang hoạt động với nhau như thế nào hay chỉ suy diễn, hay chỉ tin theo các bài học có trong sách, ai biết 1 sát na là bao lâu, tại sao 17 sát na mà không 16, 18 sát na, tại sao 16 tuệ minh sát mà không 14, tại sao những tư liệu này kinh tạng Nguyên thủy không có, họ tin theo sách nhưng nghĩ là hiểu. Có vị hô hào tu tập là phải diệt trừ vô minh, ái, thủ, tham, sân, si... nhưng không nói lên được vô minh,... , si nghĩa là gì và làm sao diệt được. Mà vô minh,... , tham, sân, si trong mỗi người lại tùy theo lúc nào, ở đâu, với ai mà thể hiện khác nhau thiên hình vạn trạng, không giống như trong bài học, sách vở. Trong Phật học, khái niệm "diệt" vô minh, ái, thủ, tham, sân, si (như Diệt đế) không có nghĩa là "tiêu diệt" như một động từ trong Việt ngữ mà "diệt" theo nội hàm Pāli là Nirodha (Hán ngữ 滅, English cessation, remainderless) có nghĩa là không còn tồn tại, chấm dứt, không lệ thuộc. Thế thì, theo Phật học khái niệm "diệt" vô minh, ái, thủ, tham, sân, si không phải là "tiêu diệt" chúng mà là học hiểu và tu tập nhận ra chúng ở chính ngay lời nói, hành động, ý nghĩ của mình mà khống chế, chuyển hóa theo Bát Chánh Đạo, không còn lệ thuộc chúng nên chúng không còn tồn tại với chính mình. Nếu hiểu diệt phiền não với nghĩa tiêu diệt chúng thì có nghĩa là bị "đánh tráo" khái niệm từ sự thiếu hiểu biết về Phật học.
Vì giảng dạy có cơ sở từ sách Phật học chuyên môn nên nhóm này có cả tu sĩ và cư sĩ dạy, được quần chúng ngưỡng mộ, tôn trọng về kiến thức Phật học của họ. Tuy nhiên, các môn học thường mang tính cách kiến thức hàn lâm, chuyên môn, cao cấp, xa lạ, không thực tế, không áp dụng được trong sinh hoạt, ngoài niềm tin nhưng người học thấy có lý, có trong sách Phật học, nên nghĩ là hiểu mà không biết là tin theo nhận thức của họ. Thế rồi, vì thuộc nhiều kiến thức chuyên môn mang màu sắc tôn giáo, họ dễ dàng tưởng mình đã chứng đắc gì gì đó. Khi trở về cuộc sống đời thường, với gia đình, họ tự mâu thuẫn với chính họ, gia đình và những người chung quanh vì học kiến thức Phật học theo sách một đàng mà đời sống thực một nẻo. Thế là, phi hữu ái phát sinh, khổ khổ xuất hiện.

3/ Nhóm theo dạng nỗ lực tu tập, hướng dẫn một số quần chúng theo những gì họ đã tiếp thu ở nước ngoài. Không bằng lòng với sự tu tập bình thường trong nước, họ ra nước ngoài, tu tập ở các trung tâm thiền vài tháng, vài năm, giữ giới nghiêm túc, nỗ lực chuyên cần hành thiền theo sự hướng dẫn của vị thầy nào đó. Sau khi nghĩ rằng đã có khả năng, sở đắc, sở chứng, họ trở về quê nhà với hoài bão, niềm tin sẽ giới thiệu, hướng dẫn, khai hóa cho những người ở quê nhà đang tu sai, chưa biết tu tập giải thoát "theo Chánh pháp". Trong số này, ngoại trừ những vị có kiến thức, khả năng vững chắc về pháp học, được đào tạo nghiêm túc từ các trường lớp Phật học chính quy, số còn lại thì chỉ biết làm theo những gì từ người hướng dẫn nhưng thường tin mà không hiểu vì không có căn bản Phật học. Ở nước ngoài, họ copy một số kiến thức, sinh hoạt, tổ chức ở một số trung tâm thiền mà họ chỉ ở đó, rồi cho đó mới là tu tập đúng, chân truyền chánh pháp. Trong số này, có những người copy lại bản copy tu học không đúng mà không biết, lại tin là số một nên mang về quê nhà tận lực truyền bá, giống như họ chỉ ăn ở một quán phở rồi bảo quán đó ngon nhất, ngồi ghế trong nhà mình và tưởng nhà bên cạnh ngồi dưới đất. Thế nên, cách sinh hoạt và hướng dẫn của họ mang nặng hình thức văn hóa tín ngưỡng Phật giáo của quốc gia mà họ học nhưng lại cho là chánh pháp. Nhóm này thường được một số Phật tử mới tiếp cận Phật giáo Theravāda và một số phật tử Bắc tông sùng thượng, tin theo vì sự hấp dẫn trên hình thức sinh hoạt với vẻ thánh thiện, nghiêm túc của họ. Từ niềm tin đó, phát sinh một số người có cái nhìn tiêu cực về sự tu tập của tăng ni cả hai truyền thống ở Việt Nam.
Nếu có dịp, tiếp cận sinh hoạt và sự hướng dẫn của họ, như phải ngồi thiền theo kiểu thế này, kiểu thế kia, như phải bán già hay kiết già, phải tay phải trên tay trái, phải chánh niệm khi đi, khi ăn, khi ngồi vv và vv... tất cả thiền sinh phải sinh hoạt như tu sĩ ở đất nước mà người hướng dẫn đã ở, đã học. Họ hướng dẫn thiền sinh chú trọng nhiều thời gian hành thiền Tứ Niệm Xứ theo tư thế ngồi như họ đã được học từ người hướng dẫn họ cho mọi người.
Khách quan, chúng ta có thể nhận ra:
A. Nếu ngồi thiền phải với tư thế kiết già, bán già, tay phải hay trái đặt trên thì những người bị cụt chân, cụt tay không ngồi thiền được hay sao?
B. Hô hào, kêu gọi mọi người phải hành thiền, đi đứng nằm ngồi, ăn uống, nói năng trong chánh niệm như khẩu hiệu. Thế thì, có nghĩa là mọi người "đã có chánh niệm" và áp dụng khả năng chánh niệm đó vào sinh hoạt???!!! Thưa không!

Chúng ta xem lại tiêu đề của kinh Tứ Niệm Xứ _ Trung Bộ Kinh 10, Pāli là Satipaṭṭhāna, 
sati là niệm, paṭṭhāna nghĩa là thành lập, English là establishment, foundation, trong ngữ cảnh này được dịch Việt là thành lập, thiết lập niệm hay chánh niệm. 
Gần đây, từ Vipassanā, English : insight, Việt : minh sát, thường dùng để chỉ cho việc thực hành Tứ Niệm Xứ để có chánh niệm. Từ hai nguồn trên, chúng ta có thể nhận ra, học và thực hành Tứ Niệm Xứ trên thân thọ tâm pháp, có nghĩa là CHƯA CÓ chánh niệm mà ĐANG THÀNH LẬP, XÂY DỰNG chánh niệm. Thế thì, đang học, thực tập để xây dựng chánh niệm mà hô hào mọi người DÙNG chánh niệm trong sinh hoạt, thiền tập???!! Như thế, khác nào ĐANG tìm cách mua xe, chưa có xe mà bảo sử dụng xe định mua để đi mua xe.

C. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật giới thiệu 21 cách để thành lập, xây dựng chánh niệm. Cụ thể, niệm thân 14, niệm thọ 1, niệm tâm 1, niệm pháp 5 . Trong 21 cách này, chỉ có niệm hơi thở trong phần niệm thân, Đức Phật đề cập đến tư thế ngồi. Hai mươi cách còn lại, có thể áp dụng các tư thế khác nhau.
Thế thì, ở đâu ra chuyện thực hành Tứ Niệm Xứ chú trọng và gần như là với tư thế ngồi. Như thế, từ một phương pháp thực tiễn, tất cả mọi người có thể áp dụng cho sinh hoạt của đời sống, họ biến thành cách sinh hoạt mang hình thức tôn giáo, dành cho sinh hoạt như tu sĩ, xa rời sinh hoạt cá nhân, gia đình, xã hội, tự dựng ra phương pháp cục bộ, không đúng lời Đức Phật dạy, mà không biết.
Thế là, cả người hướng dẫn và người học cùng nhau cố gắng nhiệt tình thực hành những phương phâp tự suy diễn để "mong muốn" mau mau giác ngộ, giải thoát theo khái niệm của họ, hành khổ xuất hiện.
Kết,
Tùy theo nhu cầu, hoàn cảnh, các bạn có thể tham khảo, học với cả ba nhóm trên nhưng tu tập thì phải tự cá nhân của mình.
Tự tu như thế nào?
Học và hiểu đúng về Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo.
Giữ Ba quy y, Năm điều học (học, hiểu, thuộc lòng 5 yếu tố cho mỗi điều học).
Tạm ngưng các sự tu tập mang hình thức tôn giáo, giáo điều cục bộ, tập thể.
Tự mình nhận ra tham, sân, si, tà kiến, ngã mạn từ lời nói, hành động, ý nghĩ của mình trong sinh hoạt.
Đối với bên ngoài, dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng để khống chế lời nói, hành động ác.
Đối với ý nghĩ xấu ác nội tâm, dùng chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định để nhận ra, khống chế, hóa giải, không lệ thuộc.
Soi sáng hành động, lời nói, ý nghĩ đang tạo nghiệp thiện hay ác bằng chánh kiến, chánh tư duy.
Trước khi nhập Đại Niết Bàn, Đức Phật dạy rõ, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, y cứ vào chính mình, y cứ vào pháp, không y cứ vào ai cả.
Đây là câu Đức Phật trả lời cho các bạn.

Bài 5: Bằng cách gì tu tập, nhận ra pháp ngay khi đang nói, hành động, suy nghĩ trong sinh hoạt.


Câu hỏi: Thưa thầy, qua những bài đọc trên FB của thầy, con vẫn chưa hiểu thế nào là tu tập ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ. Xin thầy hướng dẫn.
Trả lời:
Chào bạn,
Nếu thực sự có nhu cầu thực hành, bạn chịu khó chiêm nghiệm, thực hành theo các bước sau:
1/ Tạm thời gát một bên tất cả sinh hoạt theo HÌNH THỨC tín ngưỡng tôn giáo, ăn mặc bình thường, không cần thể hiện sự tu tập gì cả.
2/ Thọ trì nghiêm túc Ba quy y và Năm điều học.
Học, hiểu, thuộc 5 điều học và mười nghiệp ác.
Học, hiểu, thuộc 5 yếu tố cho mỗi điều học.

Ví dụ: 
5 yếu tố phá vỡ điều học không sát sinh, tạo ác nghiệp sát sinh:
a. Sinh vật đang sống,
b. Biết sinh vật đó đang sống,
c. Cố ý _ cetana_ volition _ với tham, sân hay si,
d. Tự mình, tạo mọi điều kiện, sai bảo người khác giết sinh vật ấy,
e. Tâm thỏa mãn khi biết sinh vật ấy chết do ý muốn của mình.
Ngay khi phá vỡ điều học (giới) không sát sinh thì hình thành nghiệp đạo ác sát sinh và âm thầm đưa đến quả báo khi đủ điều kiện.
Đối với 4 điều học còn lại cũng tương tự.
Giới được xây dựng trên việc tránh xa nghiệp ác nên muốn giữ giới phải hiểu nghiệp ác.
Ví dụ điều học: tránh xa sự nói dối. Pāli: musā-vādā (nói dối) veramaņī (tránh xa). English: to asbtain (tránh xa) from false speech (lời nói dối trá).
Muốn học đầy đủ thì liên lạc BĐH lớp học gửi cho link đã học về chủ đề này.
3/ Chiêm nghiệm thực hành về các chủ đề: Duyên khởi, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Đế, thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân ngay trong sinh hoạt với thấy, nghe, ngửi, ăn, tiếp xúc, hành động, làm việc, nói, suy nghĩ.
Chúng ta có 6 giác quan, 6 đối tượng đưa đến 6 nhận thức. Ví dụ: con mắt, hình dáng màu sắc đưa đến thấy...
Trong bài học này, chúng ta chọn ĐANG thấy, ĐANG nghe NGAY KHI nói, hành động, suy nghĩ để ví dụ. Từ đó, các bạn suy luận ra sự tu tập trên hoạt động của các giác quan khác.
Chiêm nghiệm tu tập khi ĐANG THẤY gồm 3 điều kiện: con mắt <+> hình dáng màu sắc => thấy.

Bài A. Quan sát, nhận ra từ Duyên khởi:


Cái này CÓ nên cái kia CÓ.
Cái này SINH nên cái kia SINH.
Cái này KHÔNG nên cái kia KHÔNG.
Cái này DIỆT nên cái kia DIỆT.
Con mắt và màu sắc hình dáng CÓ thì mới CÓ thấy.
Mắt và màu, hình hợp tác SINH nên phát SINH sự thấy.
KHÔNG có mắt và hình sắc thì KHÔNG có thấy.
Mắt không hợp tác DIỆT với hình màu thì không còn DIỆT thấy.
Đối với các giác quan khác, nói, hành động, suy nghĩ trong sinh hoạt tự thân, gia đình, xã hội cũng chiêm nghiệm như vậy. Nhận ra chúng chỉ là các yếu tố liên đới theo các điều kiện, không có ta, của ta, tự ngã của ta... từ từ nhận ra thân kiến hay ngã kiến, không còn lệ thuộc nó, sống hòa hợp với chính mình, gia đình và xã hội.

Bài B. Tứ Niệm Xứ:


Thành lập, nuôi dưỡng, phát triển tâm sở niệm => chánh niệm. Bằng cách:
a. Quán thân trên thân để nhận ra SẮC UẨN: nhận ra, quan sát KHI ĐANG thấy, đang nghe hay đang tiếp xúc mềm cứng nóng lạnh nặng nhẹ là ĐANG nhận ra sắc uẩn.
b. Quán thọ trên thọ để nhận ra THỌ UẨN: ghi nhận, quan sát cảm giác dễ chịu, khó chịu, trung tính khi ĐANG thấy, ĐANG nghe là ĐANG nhận ra thọ uẩn.
c. Quán tâm trên tâm để nhận ra HÀNH UẨN VÀ THỨC UẨN: NGAY KHI ĐANG thấy, nghe... quan sát, ghi nhận tâm tham hay không tham, sân hay không sân, si hay không si, tập trung hay không tập trung... phản ứng TỪ cảm giác (thọ uẩn) và thông tin (tưởng uẩn). Đó là ĐANG nhận ra hành uẩn và thức uẩn. Thấy, nghe... thuộc về thức uẩn, tham sân si... thuộc về hành uẩn.
c. Quán pháp trên pháp để nhận ra TƯỞNG UẨN với năm triền cái và Tứ Thánh Đế.
NHẬN RA, QUAN SÁT
_ Năm triền cái khi ĐANG thấy:
Đang thấy nhưng không ghi nhận rõ là "hôn trầm" triền cái.
Đang thấy với phân vân là "nghi" triền cái.
Đang thấy với bực mình, tức giận là "sân" triền cái.
Đang thấy với lo lắng lo sợ, hối hận là "trạo hối" triền cái.
Đang thấy với tham muốn, dục vọng là "dục" triền cái.
_ Nhận ra, quan sát Tứ Thánh Đế khi đang thấy _ Thánh Đế Hiện Quán: nhận ra
Đang thấy với khổ khổ, hoại khổ hay hành khổ là ĐANG nhận ra Khổ đế.
Đang thấy với tà kiến hay phi hữu ái, hữu ái, dục ái hay dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ là ĐANG nhận ra Tập đế.
Đang thấy bằng tỉnh giác, chánh niệm, vv... là ĐANG nhận ra Đạo đế.
Đang thấy nhưng không lệ thuộc tướng chung, tướng riêng, vắng mặt, không có ba khổ trên là ĐANG nhận ra Diệt đế.
Như thế,
Quán thân nhận ra sắc uẩn,
Quán thọ nhận ra thọ uẩn,
Quán tâm nhận ra hành uẩn, thức uẩn,
Quán pháp nhận ra tưởng uẩn.
Nhận ra 5 uẩn THÌ MỚI nhận ra vô thường, khổ, vô ngã, không còn thân kiến, vắng mặt đau khổ - "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách."

Bài C. Nhận ra, quan sát 5 hạ phần kiết sử: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham hay sân NGAY KHI ĐANG thấy: nhận ra


Đang thấy với thân kiến là nhận ra kiết sử thân kiến.
Đang thấy với hoài nghi là nhận ra kiết sử hoài nghi.
Đang thấy với giới cấm thủ là nhận ra kiết sử giới cấm thủ.
Đang thấy với tham là nhận ra kiết sử tham.
Đang thấy với sân là nhận ra kiết sử sân.
Tương tự như vậy, chúng ta nhận ra các pháp NGAY trên KHI ĐANG nghe, ăn, ngửi, nói, hành động, suy nghĩ.
Chỉ cần nhận ra (không phải suy nghĩ về) đúng chúng, chúng tự sinh tự diệt. Đó là chánh niệm.
Ghi chú quan trọng,
1/ Trình độ, căn cơ, hoàn cảnh mỗi người không giống nhau, chúng ta học tự thực hành theo cách riêng của mình, KHÔNG copy, KHÔNG lệ thuộc ai cả.
2/ Chiêm nghiệm thực hành ngay trong sinh hoạt bình thường hằng ngày, KHÔNG cố gắng thức khuya dậy sớm để tu hành thêm gì cả, KHÔNG tạo hình thức tu tập. Chỉ cần nhận ra, quan sát các phiền não, kiết sử, không cần cố gắng diệt trừ chúng vì chúng tự sinh, tự diệt theo quy luật duyên khởi với ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
3/ Không tạo ảo tưởng về mình, thần bí hóa, thần thánh hóa, về sự tu tập của mình, về chứng đắc gì cả. Nếu càng tu tập mà càng thành thật, càng khiêm tốn, càng bình thường hóa, càng dễ chịu, càng vui vẻ, thoải mái, càng thân thiện, càng thân cận với chính mình, gia đình và mọi người, không còn muốn cải tạo ai nữa, nhận ra tham sân si, tà kiến, ngã mạn của chính mình là tu tập đúng, có kết quả.
4/ Đối với lời nói, hành động thì dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Đối với tâm ý thì dùng chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Đức Phật dạy: "Thấy Pháp là thấy Ta, thấy Ta là thấy Pháp".
Trong ngữ cảnh này, Ta không phải chỉ cho cá nhân của Ngài mà là sự giác ngộ, giải thoát.
Pháp chỉ cho chân đế hữu vi và vô vi.
Tham, sân, si... là chân đế hữu vi.
Như vậy, có nghĩa là, khi tu tập nhận ra (không phải nghĩ về) tham, sân, si ngay trên thân, miệng, ý là đang nhận ra giác ngộ, giải thoát.
Chúc các bạn nhận ra phiền não (tham, sân, si) là đang nhận ra bồ đề (Bodhi_ giác ngộ).

Bài 6: Ba cửa giải thoát.


Câu hỏi: Thưa Thầy, qua những bài viết ngắn của thầy, dần dần con nhận ra bản đồ cho hành trình tu tập ngay trong sinh hoạt. Tuy nhiên, con có câu hỏi: Nhận ra vô thường, khổ vô ngã để làm gì trên con đường hướng đến đạo quả Dự lưu?

Trả lời:
Thưa bạn, thú thật, câu hỏi này, ngoài kinh nghiệm cá nhân, tôi phải nhờ vào kiến thức Phật học đã học, cụ thể là diễn giải, copy theo tài liệu Phật học chuyên môn.
Để có đáp án cho câu hỏi này, các bạn có thể tham khảo từ hai tài liệu thuộc tạng Abhidhamma _ A tỳ đàm _ Thắng pháp, Đối pháp, Vi diệu pháp của cả hai truyền thống Nam tạng và Bắc tạng, Theravāda với tác phẩm Thắng pháp tập yếu luận _ Abhidhamma Sangaha của ngài Anuruddhā, chương 9 _ Nghiệp xứ và Nhất thiết hữu bộ với tâc phẩm A tỳ đạt ma Câu xá của ngài Thế Thân, phẩm Định và phẩm Trí.
Ở đây, để giải thích, tôi chỉ dùng Thắng pháp tập yếu, tham khảo và kết hợp bản dịch Thắng pháp tập yếu của ngài Minh Châu, bản dịch Toát yếu Vi diệu pháp của Phạm Kim Khánh, A manual of Abhidhamma _ Ven. Narada và bản Vi diệu pháp nhập môn, phần cuối cùng, của ngài Giác Chánh.
Tôi cố gắng diễn đạt ý chính, ngắn gọn, dễ hiểu cho người mới làm quen về văn học Phật học chuyên môn này CÓ KHÁI NIỆM về lộ trình của bậc Dự lưu. Với các thuật ngữ Phật học, tôi thêm Pāli và English để có cơ sở về ý nghĩa gốc và dễ hiểu cho người biết Anh ngữ.
Theo các bài viết trước của chúng tôi, chúng ta thực hành Tứ Niệm Xứ bằng cách ghi nhận, quan sát các hoạt động trên thân, thọ, tâm, pháp để xây dựng, thành lập niệm + tỉnh giác => chánh niệm, nhận ra năm uẩn. Cụ thể:
Quán thân trong thân, nhận ra sắc uẩn.
Quán thọ trong thọ, nhận ra thọ uẩn.
Quán tâm trong tâm, nhận ra hành uẩn và thức uẩn.
Quán pháp trong pháp, nhận ra tưởng uẩn.
Tại sao phải nhận ra năm uẩn?
Chúng ta KHÔNG thể nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên những khái niệm về mình (tục đế) từ năm THỦ uẩn mà chỉ nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên năm uẩn (chân đế).
Ví dụ, nếu chúng ta không thấy chiếc xe đang chạy thì không nhận ra sự di chuyển của chiếc xe.
Khi nhận ra:
Vô thường (anicca _ impermanence) thì đi vào tùy quán (ānu: liên tục, lặp đi lặp lại) vô thường (Aniccānupassanā _ the contemplation on impermanence) nhận ra các hiện tượng được nhận thức từ năm THỦ uẩn đều chỉ là thông tin do tưởng uẩn cấu tạo, sẽ đi vào vô tướng giải thoát môn, không còn bị lệ thuộc vào các điên đảo từ các khái niệm tục đế. (Ba điên đảo về tướng: tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo).
Khổ (Dukkhā _ unsatisfactory) thì đi vào tùy quán khổ (Dukkhānupassabā _ the contemplation of unsatisfactory) nhận ra tất cả năm uẩn luôn luôn mâu thuẫn nhau, không đồng nhất, luôn nghịch nhau sẽ đi vào vô nguyện hay vô tác giải thoát môn, không còn dục vọng theo ý mình.
Vô ngã (Anattā _ non-self) thì đi vào tùy quán vô ngã (Anattānupassanā_ the contemplation of non-self) sẽ đi vào Không tánh giải thoát môn, nhận ra sự vận hành của năm uẩn đều là quan hệ theo duyên khởi, không có cá thể nào điều động cả, không còn ảo tưởng về thân kiến, ngã kiến.
Đến cấp độ này, vị ấy không còn thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ, là bậc thánh Dự lưu (Sotāpanno).
Ghi chú quan trọng:
Ở đây, "khổ _ dukkhā" trong ba trạng thái (mark : sự biểu hiện) vô thường, khổ, vô ngã thường bị hiểu NHẦM với nghĩa "đau khổ".
Chữ Dukkhā tùy theo văn cảnh mà ý nghĩa khác nhau.
Như chúng ta đã học, pháp chân đế chia thành chân đế hữu vi và chân đế vô vi.
Chân đế hữu vi có ba: sắc (vật chất), tâm và tâm sở.
Chân đế hữu vi luôn luôn bị chi phối bởi ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
Nếu khổ ở đây là đau khổ thì cục đá, khúc gỗ vật chất cũng đau khổ hay sao? Có người lập luận,"khổ" ở đây là chúng ta bị "đau khổ" bởi chúng!!! Nhưng, thật sự, chúng ta có bị "đau khổ hay không đau khổ" vì chúng hay không thì tự thân chúng vẫn đang "khổ"
Chúng ta xem lại câu kinh Pháp cú 278
Pāli,
"Sabbe saṅkhārā dukkhā ' ti,
Yadā paññāya passati,
Attha nibbindati dukkhe,
Esa maggo visuddhiyā.
English,
All conditioned things are UNSATISFACTORY.
When one sees this with wisdom,
One turns away from SUFFERING,
This is the path to purification".
Bài kệ này, có nhiều bản dịch Việt, có ý nghĩa chung chung như sau:
Các pháp hữu vi là KHỔ (không đồng nhất, mâu thuẫn, nghịch nhau)
Khi thấy điều này bằng trí tuệ
Thì không còn ĐAU KHỔ
Đây là con đường thanh tịnh.
Chúng ta xem kệ 278 trên trong bản dịch Anh ngữ, cùng chữ dukkhā nhưng cuối câu 1 dùng chữ unsatisfactory nhưng cuối câu 3 dùng chữ suffering.
Điểm này rất quan trọng với việc thực hành Tứ Niệm Xứ để có chánh niệm, nhận ra năm uẩn, nhận ra vô thường, khổ, vô ngã. Nếu hiểu khổ là đau khổ thì bị rơi vào quán cảm giác khổ thuộc khổ thọ trong quán thọ trên thọ, hay bị rơi vào quán khổ khổ, hoại khổ, hành khổ thuộc về khổ đế của Tứ Thánh Đế trong phần quán pháp trong pháp.
Khổ trong vô thường, khổ, vô ngã không phải là sắc, không phải là cảm thọ, không phải là tâm mà là "trạng thái" vận hành của các pháp chân đế hữu vi.
Trên đây, chỉ là lộ trình của bậc Dự lưu theo kiến thức Phật học, giống như tấm bản đồ bằng giấy với những ký hiệu và màu sắc. Chúng ta không thể đi hay chạy xe trên tấm bản đồ bằng giấy mà phải TỰ MÌNH đi hay lái xe chạy trên con đường thật. Nhưng, chúng ta PHẢI luôn tỉnh táo rằng, những gì xảy ra trên con đường thật SẼ KHÔNG GIỐNG như những ký hiệu trên tấm bản đồ.
Breathe easy !
Don't worry be happy.
Khi có tấm bản đồ đúng, nếu lạc đường sẽ biết lối ra và nhớ đường. Trên con đường thật, có biết bao điều kỳ diệu sinh động sẽ xuất hiện với chúng ta và tất nhiên không giống như tấm bản đồ chỉ có những ký hiệu chết.
Sau khi đọc bài này, có bạn cho ý kiến, bài Ba cửa giải thoát như văn bản, khó thực hành được.
Anh ấy nói đúng vì ngay từ trên, tôi ghi rõ copy và diễn giải từ các tài liệu ở Abhidhamma nhưng nếu CHỊU KHÓ đọc kỹ 6 bài viết, và thực hành theo trình tự từ 1 đến 5 thì Bài 6: Ba cửa giải thoát KHÔNG PHẢI LÀ BÀI THỰC HÀNH mà là KẾT QUẢ từ thực hành 5 bài trước.
Tôi không nghĩ là với 5 bài thực hành trước KHÔNG AI KHÔNG THỂ HIỂU, THỰC HÀNH ĐƯỢC, ngoại trừ họ KHÔNG CÓ NHU CẦU.

Bài Kết: Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ.


Câu hỏi: Thưa thầy, qua các bài thầy gửi trên, con vẫn chưa hiểu rõ thế nào là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Xin thầy giải thích lại."
Trả lời:
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin trích phần giải thích về ba kiết sử này trong sách The Noble Eightfold Path _ Way to the End of Suffering của Ngài Bhikkhu Bodhi. Page 116:
"Personality view" (sakkaya-ditthi), the view of a truly existent self in the five aggregates, is cut off since one sees the selfless nature of all phenomena. Doubt is eliminated because one has grasped the truth proclaimed by the Buddha, seen it for oneself, and so can never again hang back due to uncertainty. And clinging to rules and rites is removed since one knows that deliverance can be won only through the practice of the Eightfold Path, not through rigid moralism or ceremonial observances."
Bản dịch Việt ngữ của chúng tôi :
Bát Chánh Đạo "Con đường đưa đến chấm dứt đau khổ"
Trang 231:
1/ Thân kiến (sakkàyaditthi), quan điểm về một bản ngã thật sự tồn tại trong năm uẩn bị cắt bỏ vì vị ấy thấy rõ thực thể vô ngã của các pháp.
2/ Hoài nghi bị hủy diệt vì vị ấy đã hiểu chính xác (bốn) chân lý do Đức Phật công bố, tự mình thấy rõ nên không thể nào do dự lùi bước.
3/ Giới cấm thủ bị loại bỏ vì vị ấy biết rõ đạt đến sự giải thoát chỉ bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo, không thể bằng sự tuân thủ khắc khe theo những quy định của tôn giáo hay nghi lễ.

nguồn: Sống Theo Phật Dạy



Xem thêm: 

20.8.24

KẾ THUYỀN CỎ MƯỢN TÊN

KẾ THUYỀN CỎ MƯỢN TÊN


Vào năm 208, cuối triều đại nhà Hán, ba đạo quân lớn tập trung hai bên bờ sông Dương Tử. Một bên là liên quân Thục và Ngô với 5 vạn quân. Còn bên kia là quân Ngụy với 80 vạn lính.

Vào năm 208 sau công nguyên, quân đội Bắc Ngụy tiến xuống phía nam với tham vọng thống nhất Trung Quốc. Quân nước Ngụy dẫn đầu là thừa tướng tham tàn Tào Tháo , đang rất hùng mạnh và đầy khí thế sau những chiến thắng liên tiếp. Khi tiến đến bờ sông Dương Tử, họ cắm trại và chuẩn bị khiêu chiến.

Phía bên kia của con sông lớn là lãnh thổ của Thục và Ngô. Cảm nhận được mối uy hiếp khủng khiếp từ phương Bắc và thấy quân địch đang ở thế áp đảo, lãnh chúa Đông Ngô và Tây Thục đã thành lập liên minh – với hy vọng phần nào chống chọi lại sự tấn công gần kề của các đạo quân Bắc Ngụy.

Gia Cát Lượng có trách nhiệm tham mưu cho các tướng lĩnh quân đội Thục – Ngô, đồng thời phải bày mưu tính kế chống đỡ quân đội lớn mạnh của Tào Tháo ở phía bắc. Bậc thầy cầm quân dồn hết tâm trí suy tính chiến lược đối phó – và những người dân phương Nam đang hy vọng vào một phép màu.

Bày mưu tính kế


Nhiệm vụ giao cho Gia Cát Lượng rất gấp rút. Mặc dù Thục và Ngô là hai nước liên minh, nhưng các tướng lĩnh nước Ngô không thật sự tin tưởng Gia Cát Lượng, và ghen tị với tài năng phi thường của ông. Ngay cả trong thời điểm cam go khi cả hai nước cần sự đoàn kết, thì chỉ vì sự đố kỵ, họ đã âm mưu trừ khử ông.

Họ nói rằng để đối phó với quân phương Bắc cần 10 vạn mũi tên – một lượng tên bắn quá lớn. Và rằng cuộc tấn công sẽ bắt đầu trong 10 ngày tới, mặc dù đây là một nhiệm vụ dường như không thể thực hiện nổi, ông vẫn phải tìm cách làm theo những thứ họ yêu cầu, nếu không sẽ chiếu theo quân luật mà xử. Gia Cát Lượng, phe phẩy chiếc quạt lông, mỉm cười đáp lại “Cho ta thời gian không quá ba ngày.”

Gia Cát Lượng dành hai ngày đầu chuẩn bị trong bí mật. Ông huy động 20 chiếc thuyền và bố trí 30 binh sĩ trên mỗi chiếc thuyền. Sau đó xếp quanh nhóm lính thật là các lính giả làm bằng rơm – thực tế, là một đội quân người rơm.

Vào ngày thứ ba, ông đưa theo người bạn là tướng Lỗ Túc (ông mặc bộ trang phục màu xanh trong vở diễn của Shen Yun), và dẫn các tàu thuyền vượt sông Dương Tử. Lỗ Túc thực sự không biết Gia Cát Lượng trù tính điều gì, và rất lo lắng khi thuyền tiến gần bờ sông của quân địch.
KẾ THUYỀN CỎ MƯỢN TÊN
KẾ THUYỀN CỎ MƯỢN TÊN



Tên bắn như mưa


Sương mù dày đặc che phủ lòng sông, họ dàn thuyền trước doanh trại quân địch. Gia Cát Lượng lệnh cho lính của mình hò hét và đánh trống trận. Hoảng sợ khi nghe tiếng hò hét và bị che lấp tầm mắt vì sương mù, quân địch bắn tên ồ ạt về phía tiếng động phát ra.

Gia Cát Lượng cho dàn thuyền đối diện với quân địch. các mũi tên rơi xuống – dày đặc như bão tuyết – nhưng chúng chỉ cắm vào những lính rơm trên thuyền. Khi các lính rơm ở một phía bị găm đầy mũi tên, Gia Cát Lượng cho quay thuyền ngược lại để tiếp tục nhận tên. Khi lính rơm bên này lại găm đầy tên bắn, chiếc thuyền sẽ lấy lại cân bằng.

Cuối cùng, nhận được hơn 10 vạn mũi tên nhờ sự trù tính chuẩn xác, Gia Cát Lượng ra lệnh các thuyền chở tên quay trở về, các tướng lĩnh nước Ngô ra đón ông trong sự hổ thẹn.

“Làm thế nào ngài có thể làm được như vậy?” Họ miễn cưỡng hỏi.

“Một vị tướng giỏi không chỉ biết bày binh bố trận, mà còn phải thông hiểu thiên văn, địa lý, toán quái và nguyên lý âm dương,” Gia Cát Lượng trả lời. “Ta đã nhìn thấy sương mù dày đặc từ ba ngày trước, và nghĩ ra mưu kế này.”

Khép lại trận Xích Bích


Nhờ kế hoạch hoàn hảo của Gia Cát Lượng, quân đội Thục-Ngô có đầy đủ vũ khí để sẵn sàng cho cuộc chiến tranh. Gia Cát Lượng không áy náy khi đã mượn tên của kẻ thù, bởi vì ông sẽ trả lại chúng nhanh thôi.

Sau đó trận Xích Bích diễn ra, 10 vạn mũi tên góp phần quan trọng cho chiến thắng của đội quân phương Nam. Họ đã chặn đứng sự bành trướng của Tào Tháo và khiến ông thua chạy với tàn quân ít ỏi.
...

nguồn bài và ảnh: https://www.epochtimesviet.com/thuyen-co-muon-ten_341179.html

ghi chú: 139





Xem thêm: 

Itipiso Katha Ân Đức Phật - Pháp - Tăng

Itipiso Katha Ân Đức Phật - Pháp - Tăng


Buddhaguna Dhammaguna Saṅghaguna Ân Đức Phật - Pháp - Tăng

Itipiso Katha
Itipiso Katha


*Buddhagunna Ân Đức Phật


Iti'pi so Bhagavā Ngài là Thế Tôn
Arahaṃ Ứng Cúng
Sammā sambuddho Chánh Biến Tri
Vijjā-caraṇa-sampaṇṇo Minh Hạnh Túc
Sugato Thiện Thệ
Lokavidū Thế Gian Giải
Anuttaro Vô Thượng Sĩ
Purisa-damma-sārathi Ðiều Ngự Trượng Phu
Satthā-deva-manussānaṃ Thiên Nhơn Sư
Buddho Phật
Bhagava'ti Thế Tôn

*Dhammaguna Ân Đức Pháp


Svākkhāto Bhagavatā Dhammo Pháp được Thế Tôn khéo thuyết
Sandiṭṭhiko thiết thực hiện tại
Akāliko không có thời gian
Ehipassiko đến để mà thấy
Opanayiko có khả năng hướng thượng
Paccataṃ veditabbo viññūhī'ti được người trí tự mình giác hiểu

*Saṅghaguna Ân Đức Tăng


Su-paṭipanno Bhavagato Sāvakasaṅgho Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn
Uju-paṭipanno Bhavagato Sāvakasaṅgho Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn
Ñaya-paṭipanno Bhavagato Sāvakasaṅgho Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn
Sāmīci-paṭipanno Bhavagato Sāvakasaṅgho Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn
Yad'idaṃ cattāri purisa-yugāni Tức là bốn đôi,
aṭṭha purisa-puggalā tám chúng.
Esa Bhavagato Sāvakasaṅgho Chúng đệ tử Thế Tôn
Āhuṇeyyo đáng được cung kính
Pāhuṇeyyo đáng được tôn trọng
Dakkhiṇeyyo đáng được đảnh lễ
Añjali-karaṇīyo đáng được chắp tay
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa'ti là phước điền vô thượng ở đời



Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

19.8.24

60 bức LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT BẰNG TRANH CỦA THÁI LAN

60 bức LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT BẰNG TRANH CỦA THÁI LAN

lịch sử đức phật bằng tranh, đức phật lịch sử,  lịch sử đức phật thích ca,

Đấng Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các chư thiên ở cung trời Đâu Suất   thỉnh Bồ tát Hộ Minh  tái thế để giáo hoá và cứu độ chúng sinh ở cõi Ta Bà.
Đấng Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các chư thiên ở cung trời Đâu Suất   thỉnh Bồ tát Hộ Minh  tái thế để giáo hoá và cứu độ chúng sinh ở cõi Ta Bà.

Tiền thân của đức Phật là vua Chuyển luân thánh vương Đại Thiện Kiến tôn quý
Tiền thân của đức Phật là vua Chuyển luân thánh vương Đại Thiện Kiến tôn quý

Thái tử vừa lọt lòng mẹ đã bước đi bảy bước, mỗi bước có một hoa sen nở để đỡ lấy chân của Ngài. Đến bước thứ bảy Thái tử đưa một tay chỉ ngón trỏ lên trời, một ngón tay chỉ xuống đất thốt lên câu nói: 

"Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" nghĩa là "Trên trời dưới đất chỉ có chân-ngã (tức cái-Ta-chân-thật) là số một" ... rồi sau đó Ngài đã trở lại đời sống như một đứa bé sơ sanh bình thường khác.  

Theo phong tục Ấn Độ, người phụ nữ khi mang thai phải về quê cha mẹ của mình để sanh nở. Hoàng hậu Maya cũng không ra khỏi tập tục đó. Gần ngày khai hoa nở nhụy, trên đường về quê cha mẹ, đến vườn Lâm Tỳ Ni ở ngay biên giới của hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ), Hoàng hậu ra lệnh cho đoàn tuỳ tùng dừng chân nghỉ mát vì nơi đây không khí dễ chịu thoang thoảng hương hoa nhẹ nhàng bay trong gió. Đoàn tuỳ tùng dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi vào ven rừng ngắm cảnh, bà nhìn thấy một cây to có nhiều hoa nở rất đẹp mà trong kinh sách ghi là hoa Linh Thoại, có kinh ghi là hoa Vô Ưu. (Tương truyền loại hoa này 3,000 năm mới nở một lần, nhưng nếu hoa nở trái mùa, đó là hoa nở để chào mừng hay báo hiệu sẽ có một vị giác ngộ tương lai sắp ra đời.)  

Về huyền thoại của Đức Phật thì chuyện xưa kể rằng, khi Hoàng hậu Maya đưa tay phải lên vịn vào cành cây Vô Ưu thì Thái tử ra đời, Ngài sanh từ bụng mẹ qua bên hông phải. Lúc đó liền có 2 vị Phạm Thiên xuất hiện đỡ lấy Ngài. Hai vòi nước một ấm một lạnh do 2 con rồng phun ra từ trên cao xuống tắm cho vị hoàng tử mới sơ sanh.

Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm 624 TCN, hoàng hậu Ma Da(Maha Maya) hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa(Siddhārtha) tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Khi sinh ra, ngài đã đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa sen. Một tay Ngài chỉ trời, một tay chỉ đất và nói rắng : “Thiên thượng, thiên hạ. Duy ngã độc tôn”. Sau khi sinh ngài được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái tử được giao cho người dì là Ma Ha Ba Xà Bà Đề (Maha Pajapati Gotami) nuôi dưỡng.
Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm 624 TCN, hoàng hậu Ma Da(Maha Maya) hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa(Siddhārtha) tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Khi sinh ra, ngài đã đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa sen. Một tay Ngài chỉ trời, một tay chỉ đất và nói rắng : “Thiên thượng, thiên hạ. Duy ngã độc tôn”. Sau khi sinh ngài được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái tử được giao cho người dì là Ma Ha Ba Xà Bà Đề (Maha Pajapati Gotami) nuôi dưỡng.

Theo phong tục thời bấy giờ, nhà vua cho mời nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn học rộng tài cao vào triều dự lễ đặt tên và xem tướng cho Thái tử. Có tám vị đạo sĩ lỗi lạc vào cung xem tướng cho Thái tử. Bảy vị đưa lên 2 ngón tay và giải thích hai lẽ: Một là Thái tử sau này sẽ trở nên vị Hoàng đế vĩ đại nhứt thế gian, hai là Ngài sẽ đi tu và đắc quả Phật. Riêng đạo sĩ trẻ tuổi tên là Kiều Trần Như (Kondanna) thì bảo rằng sau này Thái tử sẽ xuất gia và thành tựu quả Chánh Đẳng Chánh Giác.

Trước đó, có một vị đạo sĩ tên là A-Tư-Đà (Asita) là một người thân tín của nhà vua tu hành trên núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, nhân chuyến hạ sơn nghe dân gian loan truyền Hoàng hậu Maya vừa hạ sanh hoàng nam, nên ông xin được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng Thái tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Đạo sĩ A-Tư-Đà xem tướng Thái tử rồi tiên tri rằng về sau Thái tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại. Nói xong, ông sụp quỳ lạy Thái tử. Thấy lão đạo sĩ đảnh lễ con mình như vậy, đức vua Tịnh Phạn cũng làm theo đạo sĩ, xá chào con mình.

Kế đó, đạo sĩ bỗng dưng cất tiếng cười khan rồi lại khóc. Đức vua và mọi người ngạc nhiên trước những cảm xúc vui buồn của đạo sĩ, hỏi tại sao, thì được đạo sĩ ATư-Đà giải thích rằng ông vui mừng vì biết rằng về sau Thái tử sẽ đắc quả Phật và ông khóc vì biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc (là cảnh giới mà người đắc thiền sẽ tái sanh vào). Do đó ông sẽ không được hưởng phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao siêu, Chánh Đẳng Chánh Giác.

Một hôm có vị đạo sư tên là A Tư Đà(Asita) đến từ Hy Mã Lạp Sơn(Hymalaya) xin yết kiến vua để chúc mừng và xem mặt thái tử. Ngài A Tư Đà xem xong bật khóc. Vua Tịnh Phạn hỏi nguyên nhân. A Tư Đà thưa rằng : “Thái tử có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất định sẽ trở thành bậc chánh đẳng, chánh giác. Tôi khóc là vì tới lúc đó thì tôi đã chết rồi nên không có cơ hội nghe pháp của ngài”.
Một hôm có vị đạo sư tên là A Tư Đà(Asita) đến từ Hy Mã Lạp Sơn(Hymalaya) xin yết kiến vua để chúc mừng và xem mặt thái tử. Ngài A Tư Đà xem xong bật khóc. Vua Tịnh Phạn hỏi nguyên nhân. A Tư Đà thưa rằng : “Thái tử có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất định sẽ trở thành bậc chánh đẳng, chánh giác. Tôi khóc là vì tới lúc đó thì tôi đã chết rồi nên không có cơ hội nghe pháp của ngài”.

Ở Ấn Độ, người ta tin đủ các loại thần: nào là thần mưa, thần gió, thần lửa, thần đất v.v... Họ tin tưởng tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của con người đều do thần linh cai quản. Con người phải cúi đầu nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt của các đấng thần linh.
Ở Ấn Độ, người ta tin đủ các loại thần: nào là thần mưa, thần gió, thần lửa, thần đất v.v... Họ tin tưởng tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của con người đều do thần linh cai quản. Con người phải cúi đầu nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt của các đấng thần linh.



Một sự kiện lạ lùng xảy ra trong thời thơ ấu của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh thần của Ngài, là chiếc chìa khoá mở đường cho Ngài tiến đến sự Giác Ngộ.  

Câu chuyện kể lại là vào hằng năm vua Tịnh Phạn có tổ chức lễ Hạ Điền. Đó là một nghi lễ cầu thần linh ban cho mưa thuận gió hoà, trước khi mọi người bắt tay vào việc đồng án. 

Sáng ngày đức Vua cùng quần thần áo mão chỉnh tề ra tận nơi hành lễ.  Các cung phi mỹ nữ đỡ thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngồi vào kiệu, lính hầu khiêng kiệu đặt dưới bóng mát của một cội cây trâm lớn, nơi nghi lễ sẽ diễn ra cách đó không xa. Mọi người đều hân hoan chiêm ngưỡng cảnh nhà vua chủ lễ, các cung phi có phận sự trông nom Thái tử cũng lén chạy đến gần để xem.

Thái tử lúc đó còn nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, nhưng lại không ham thích cảnh tưng bừng nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử rời kiệu xuống đất, thay vì chạy nhảy vui chơi, Ngài lại chọn bóng mát dưới gốc cây trâm, ngồi tréo 2 chân theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, mắt lim dim, chăm chú vào hơi thở, định tâm và tình cờ nhập định đắc Sơ Thiền. 

Đang lúc mọi người bận rộn, vui vẻ với cuộc lễ, các cung phi bỗng sực nhớ tới Thái tử, vội vã quay về với phận sự, họ thấy Thái tử đang ngồi trầm ngâm thiền định. Lấy làm lạ nhưng không dám quấy rầy, họ vội vàng đến trình tâu tự sự cho vua Tịnh Phạn. 

Đức vua Tịnh Phạn hối hả đến nơi, thấy Thái tử Sĩ-Đạt-Ta vẫn còn trong tư thế nhập định. Đức vua đến trước mặt Thái tử, chắp tay xá chào con, dịu dàng nói: "Hỡi này con yêu quí, đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con." 

Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên là người trầm tư, hay tìm những nơi thanh tịnh để thiền định. Một hôm trong ngày lễ Hạ Điền, ngài thấy người nông dân cầm roi đánh con trâu đang nặng nhọc kéo cày phía trước. Lưỡi cày xới tung đất lên cuốn theo những con trùng, có con bị nắng thiêu đốt, có con bi lưỡi cày cắt thành nhiều đoạn đang quằn quại. Lại có những con chim nhỏ bay xuống gấp lấy những con trùng đó, rồi lại có những con chim lớn đuổi bắt những con chim nhỏ. Ngài cảm thấy buồn phiền với những điều mình vừa trông thấy, nên đã ra một gốc cây to để thiền định.
Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên là người trầm tư, hay tìm những nơi thanh tịnh để thiền định. Một hôm trong ngày lễ Hạ Điền, ngài thấy người nông dân cầm roi đánh con trâu đang nặng nhọc kéo cày phía trước. Lưỡi cày xới tung đất lên cuốn theo những con trùng, có con bị nắng thiêu đốt, có con bi lưỡi cày cắt thành nhiều đoạn đang quằn quại. Lại có những con chim nhỏ bay xuống gấp lấy những con trùng đó, rồi lại có những con chim lớn đuổi bắt những con chim nhỏ. Ngài cảm thấy buồn phiền với những điều mình vừa trông thấy, nên đã ra một gốc cây to để thiền định.

Thái tử Tất Đạt Đa được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Với sự thông minh và sức mạnh phi thường của mình, đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo tất cả các học vấn. Từ năm 13 tuổi ngày được truyền thụ võ nghệ. Ngài có sở trường bắn cung rất thiện xạ. Trong một lần trong một cuộc thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng mà từ trước đến giờ chưa ai nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 lớp.
Thái tử Tất Đạt Đa được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Với sự thông minh và sức mạnh phi thường của mình, đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo tất cả các học vấn. Từ năm 13 tuổi ngày được truyền thụ võ nghệ. Ngài có sở trường bắn cung rất thiện xạ. Trong một lần trong một cuộc thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng mà từ trước đến giờ chưa ai nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 lớp.

Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) lúc ngài được 16 tuổi.
Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) lúc ngài được 16 tuổi.


Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử còn nhỏ mà không ưa thích cuộc sống ồn ào vui chơi như những trẻ con hoàng thân quốc thích khác, nên Ngài rất lo sợ, nhất là mỗi khi nhớ đến những lời tiên tri của các vị đạo sĩ rằng sau này Thái tử sẽ xuất gia tìm đạo và đắc quả Phật. 

Trong lòng vua Tịnh Phạn không muốn con mình đi tu, Ngài chỉ muốn huấn luyện cho Thái tử trở thành người tài giỏi xuất chúng về mọi mặt, để sau này trao ngai vàng cho Thái tử trị vì trăm họ. 

Để đạt được mục đích của mình. Nhà vua bắt đầu lên kế hoạch che đậy bưng bít không cho Thái tử thấy, biết... cuộc sống thế gian vốn có nhiều đau khổ và phiền lụy. 

Bao vây chung quanh thái tử là cuộc sống vương giả, xa hoa, đàn ca hát xướng, tràn ngập sự hoan lạc. Khi lên 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodharã), một người em cô cậu cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống cùng Công chúa, Thái tử hoàn toàn sống cuộc đời nhung lụa, không hay biết gì về nỗi thống khổ của nhân loại bên ngoài ngưỡng cửa cung điện, Ngài và Công chúa Da-Du-Đà-La lại sinh được một đứa con trai, khiến cho vua Tịnh Phạn hết sức vui mừng. Vua đặt tên cháu nội là La-Hầu-La (Rãhula)

Một ngày khi đi dạo bốn cửa thành, ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là : một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và một vị tu sĩ. Ngài nhận ra một điều là con người ta được sinh ra rồi già đi, rồi sẽ bị bệnh tật và cuối cùng sẽ chết cho dù người đó có là ai đi chăng nữa. Ngài trân quý hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ.
Một ngày khi đi dạo bốn cửa thành, ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là : một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và một vị tu sĩ. Ngài nhận ra một điều là con người ta được sinh ra rồi già đi, rồi sẽ bị bệnh tật và cuối cùng sẽ chết cho dù người đó có là ai đi chăng nữa. Ngài trân quý hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ.

Vua cha Tịnh Phạn rất yêu quý và luôn cung cấp cho ngài những thứ tốt nhất trên đời. Ngài đã có 13 năm sống cùng vợ trong sự tột cùng của nhung lụa.
Vua cha Tịnh Phạn rất yêu quý và luôn cung cấp cho ngài những thứ tốt nhất trên đời. Ngài đã có 13 năm sống cùng vợ trong sự tột cùng của nhung lụa.


Dù đức vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu cuộc sống của dân chúng chu đáo như thế nào cũng không qua mắt được Thái tử. Sau bốn chuyến du ngoạn ngoài thành Thái tử đã quan sát và nhận thấy cuộc sống của con người không hoàn toàn hạnh phúc, mà cuộc sống con người bị quay cuồng trong một vòng tròn khốn khổ như hình ảnh một cụ già yếu ớt, mắt mờ, lưng còng, tóc bạc, da nhăn, bước đi rung rẩy phải nhờ một cây gậy chống đỡ. Một người bệnh hoạn đau đớn rên la ngoài đường trông thật thảm thương. Một thây người chết sình thúi đưa lên giàn hoả thiêu đốt trước sự khóc lóc sầu não của người thân còn sống. Bên cạnh đó những người xung quanh chỉ lo chạy đua, tranh giành, chụp giựt, bon chen hằng ngày, không hề có giây phút suy tư tìm cách thoát khỏi cái vòng hệ luỵ sanh, già, bệnh, chết đó! Chừng như họ chịu thua hoàn cảnh khắc nghiệt ập lên cuộc đời ngắn ngủi của họ và cứ tiếp tục thả mình trôi lăn trong biển khổ định mệnh. Riêng Thái tử thì không chấp nhận, Ngài nghĩ là mình phải làm bất cứ giá nào để vượt khỏi sự sinh diệt. Rồi Ngài trầm ngâm tư duy tìm lối thoát ra, nhưng không có cách nào hết. 

Cũng may, ngoài ba cảnh già, bệnh, chết... thì trong chuyến du ngoạn lần thứ tư, Thái tử gặp được một vị đạo sĩ Bà La Môn nghiêm trang khả kính. Hình ảnh thong dong từ tốn của vị tu sĩ này đã mở cho Thái tử một con đường mà Ngài hy vọng sẽ đạt được giải thoát an vui.

Ngài quay về cung nhìn thấy các cung nữ say sưa, thân thể lõa lồ, nằm ngổn ngang trong phòng khiến ngài cảm thấy sự ô uế của con người.
Ngài quay về cung nhìn thấy các cung nữ say sưa, thân thể lõa lồ, nằm ngổn ngang trong phòng khiến ngài cảm thấy sự ô uế của con người.

Qua bao nhiêu sự việc, ngài quyết định ra đi tìm đường giải thoát. Ngài đến phòng của mình, ghé cửa nhìn vào người vợ yêu dấu Da Du Đà La và đứa con thơ La Hầu La(Ràhula) lần cuối trước khi lên đường.
Qua bao nhiêu sự việc, ngài quyết định ra đi tìm đường giải thoát. Ngài đến phòng của mình, ghé cửa nhìn vào người vợ yêu dấu Da Du Đà La và đứa con thơ La Hầu La(Ràhula) lần cuối trước khi lên đường.

Thế rồi ngài đã cỡi con ngựa Kiền Trắc(Kantaka) cùng với người nô bọc của mình là Xa Nặc(Channa) bỏ lại kinh thành ra đi vào giữa đêm khuya.
Thế rồi ngài đã cỡi con ngựa Kiền Trắc(Kantaka) cùng với người nô bọc của mình là Xa Nặc(Channa) bỏ lại kinh thành ra đi vào giữa đêm khuya.

Ma vương Vassavati (Ba Tuần) đến cản và bảo rằng chỉ còn 7 ngày là Ngài sẽ được cai trị quốc độ, nhưng không được kết quả gì.
Ma vương Vassavati (Ba Tuần) đến cản và bảo rằng chỉ còn 7 ngày là Ngài sẽ được cai trị quốc độ, nhưng không được kết quả gì.

ho người hầu Channa (Xa Nặc) đem gươm và ngựa Kanthaka (Kiền Trắc) trở về kinh thành báo cho Đức vua Suddodhana (Tịnh Phạn) biết chuyện.
ho người hầu Channa (Xa Nặc) đem gươm và ngựa Kanthaka (Kiền Trắc) trở về kinh thành báo cho Đức vua Suddodhana (Tịnh Phạn) biết chuyện.

Channa xin được xuất gia luôn nhưng không được. Ngựa Kanthaka thấy ngài không lay chuyển, lòng bịn rịn rơi nước mắt.
Channa xin được xuất gia luôn nhưng không được. Ngựa Kanthaka thấy ngài không lay chuyển, lòng bịn rịn rơi nước mắt.

Ngài đi qua thành Rajagaha (Vương Xá), dân chúng thấy dáng Đại Nhân tướng bèn bàn tán xôn xao khắp nơi.
Ngài đi qua thành Rajagaha (Vương Xá), dân chúng thấy dáng Đại Nhân tướng bèn bàn tán xôn xao khắp nơi.

Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanĐức vua Bimbisara (Tần Bà Sa) ngự đến thưa rằng nếu Ngài chứng đạo thì xin về độ cho mình trước tiên.
Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanĐức vua Bimbisara (Tần Bà Sa) ngự đến thưa rằng nếu Ngài chứng đạo thì xin về độ cho mình trước tiên.

Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanHọc tập với đạo sĩ Alara (A-la-la) đến hết khả năng của thầy, nhưng vẫn chưa phải là con đường giác ngộ nên Ngài từ giã ra đi.
Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanHọc tập với đạo sĩ Alara (A-la-la) đến hết khả năng của thầy, nhưng vẫn chưa phải là con đường giác ngộ nên Ngài từ giã ra đi.

Ngự đến tu viện của đạo sĩ Udaka Ramaputta (Uất Đầu Lam Phất), Ngài vẫn chưa thấy được ánh sáng giải thoát.
Ngự đến tu viện của đạo sĩ Udaka Ramaputta (Uất Đầu Lam Phất), Ngài vẫn chưa thấy được ánh sáng giải thoát.

Ngài ngự đến thôn Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), một nơi an lành, mát mẻ, với dòng sông trong vắt chảy qua và có nhóm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) đến cùng tu học.
Ngài ngự đến thôn Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), một nơi an lành, mát mẻ, với dòng sông trong vắt chảy qua và có nhóm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) đến cùng tu học.

Ngài bắt đầu hành pháp khổ hạnh, nhịn ăn, nín thở… Chư Thiên đem vật thực cõi trời đến dâng nhằm bảo toàn tính mạng cho Ngài.
Ngài bắt đầu hành pháp khổ hạnh, nhịn ăn, nín thở… Chư Thiên đem vật thực cõi trời đến dâng nhằm bảo toàn tính mạng cho Ngài.

Sau khi đã thọ giáo hết với 2 vị thấy đầu tiên là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta ngài đã đến một khu rừng để tu ép xác khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều Trần Như(Kondana). Sau 6 năm tu ép xác, thân thể ngài càng suy nhược, yếu ớt tưởng chừng sắp chết. Đến khi ngài nghe được tiếng đàn của đấng Phạm Thiên Indra, ngài liên tưởng đến loại dây đàn không quá căng cũng không quá chùng nên ngài đã phát hiện ra con đường trung dung – Trung Đạo. Ngài đã ăn uống bình thường trở lại. Điều này khiến cho 5 anh em Kiều Trần Như thất vọng và đã bỏ ngải để ra đi tìm nơi khác tiếp tục ép xác tu hành.
Sau khi đã thọ giáo hết với 2 vị thấy đầu tiên là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta ngài đã đến một khu rừng để tu ép xác khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều Trần Như(Kondana). Sau 6 năm tu ép xác, thân thể ngài càng suy nhược, yếu ớt tưởng chừng sắp chết. Đến khi ngài nghe được tiếng đàn của đấng Phạm Thiên Indra, ngài liên tưởng đến loại dây đàn không quá căng cũng không quá chùng nên ngài đã phát hiện ra con đường trung dung – Trung Đạo. Ngài đã ăn uống bình thường trở lại. Điều này khiến cho 5 anh em Kiều Trần Như thất vọng và đã bỏ ngải để ra đi tìm nơi khác tiếp tục ép xác tu hành.

Vào ngày Đại Giác Ngộ, có bà Sujata (Tu Xà Đề) dâng sữa vì nghĩ rằng Ngài là một vị Thọ thần.
Vào ngày Đại Giác Ngộ, có bà Sujata (Tu Xà Đề) dâng sữa vì nghĩ rằng Ngài là một vị Thọ thần.

Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc xuất gia tầm đạo đã nhiều lần thất bại suýt mất mạng.  


Lúc đầu Ngài tìm cầu học đạo với 2 vị thầy Yoga nổi tiếng thời đó là đạo sĩ Alãrã Kãlama và Uddaka Rãmaputta. 

Học với đạo sĩ Alãrã Kãlama, không bao lâu ngài đắc quả "Vô Sở Hữu Xứ" nghĩa là "Chỗ không có gì". Đây là trạng thái tâm thức thiền gia cảm nhận "không có gì" chung quanh mình trong lúc toạ thiền cũng như sau khi xả thiền. Trong tiến trình này, tuy tâm không dao động, không rối loạn trước các đối tượng (vì đối tượng không là gì), nhưng vẫn còn tự ngã và ý thức cho nên ngã và pháp đều có mặt. Kết quả đã không đáp ứng được mục đích thoát khỏi sanh già bệnh chết, nên Ngài  từ giả vị Thầy ra đi tìm pháp khác, mặc dù vị Thầy này đã yêu cầu Ngài ở lại để cùng hướng dẫn đồ chúng.

Ngài ra đi tìm học đạo với vị thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rãmaputta chỉ trong 3 tuần ngắn, Ngài cũng được vị thầy này ấn chứng cho đã đạt được quả vị cao nhất của hệ thống thiền Yoga là "Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ". Đây là trạng thái "không tri giác, mà cũng không không tri giác" nói cách khác là "hoàn toàn không nhận thức điều gì đối với môi trường xung quanh". Trong lúc đó niệm biết rõ ràng không xuất hiện cho nên thiền giả có lúc chìm đắm trong ảo tưởng. Ngài nhận thấy loại định này cũng không đưa đến thoát khỏi ly tham, cũng không đạt được đoạn diệt, an tịnh, thượng trí và giác ngộ. Vì thế dù được vị thầy thứ hai này ấn chứng và ngỏ ý truyền tất cả đồ chúng để Ngài cai quản và hướng dẫn họ tu tập, nhưng ngài đã nhã nhặn từ chối.  

Một lần nữa, Ngài từ giã vị thầy thứ hai để ra đi. 

Lang thang qua xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp đạo sĩ Kiều Trần Như và bốn anh em. Cùng với họ, Ngài bắt đầu tu khổ hạnh. Thời đó các vị tu sĩ quan niệm là phải đì thân thật khốc liệt để cảm giác đau đớn nổi lên trên thân thì mới đạt được đạo quả. Các tu sĩ thời đó cho rằng đây là con đường duy nhất không còn con đường nào khác để đạt được Niết Bàn. Trong vòng 6 năm đạo sĩ Cồ Đàm nổi tiếng khắp nơi về việc tu hành khổ hạnh. Có lúc Ngài tu theo hạnh con chó, con bò, có lúc Ngài ngủ trên cỏ gai nhọn, ngủ một giò, không tắm, không cạo râu, không ăn no uống nhiều, chỉ ăn một hạt gạo mỗi ngày. Có khi vào giữa đêm khuya lạnh lẽo Ngài lại trầm mình xuống dòng sông, nước lạnh thấu xương hay nằm chịu đựng cho tuyết rơi phủ cả thân mình. Ngài tự khép mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ, cho đến một ngày kia thân hình tráng kiện của Bồ Tát chỉ còn da bọc bộ xương, Ngài xứng danh là đệ nhất khổ hạnh, được mọi người tôn xưng là Thánh nhân. 

Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanNgài thả mâm vàng và nguyện rằng sắp tới nếu đạt quả Vô thượng Bồ Đề thì mâm sẽ trôi ngược dòng.
Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanNgài thả mâm vàng và nguyện rằng sắp tới nếu đạt quả Vô thượng Bồ Đề thì mâm sẽ trôi ngược dòng.

Mâm trôi một đoạn rồi chìm xuống đáy nước đụng phải ba cái mâm trước đó. Việc này làm cho rồng chúa thức giấc và biết rằng có thêm một vị Phật vừa mới giác ngộ.
Mâm trôi một đoạn rồi chìm xuống đáy nước đụng phải ba cái mâm trước đó. Việc này làm cho rồng chúa thức giấc và biết rằng có thêm một vị Phật vừa mới giác ngộ.

Ma vương Vasavatti cùng đoàn tùy tùng đã đến quấy nhiễu ngài. Một vị nữ thần từ trong lòng đất đã đánh bại ma vương để hộ pháp cho ngài. Nhờ tu tập pháp độ trong nhiều kiếp nên ngài đã nhiếp phục ma vương một cách dễ dàng. Cuối cùng ma vương cũng bị khuất phục và thành tâm đảnh lễ với ngài.
Ma vương Vasavatti cùng đoàn tùy tùng đã đến quấy nhiễu ngài. Một vị nữ thần từ trong lòng đất đã đánh bại ma vương để hộ pháp cho ngài. Nhờ tu tập pháp độ trong nhiều kiếp nên ngài đã nhiếp phục ma vương một cách dễ dàng. Cuối cùng ma vương cũng bị khuất phục và thành tâm đảnh lễ với ngài.

Vào buổi bình minh trăng tròn tháng 4 năm 588 TCN, ngài đã hoàn toàn giác ngộ trở thành một đấng chánh đẳng, chánh giác, một vị Phật.
Vào buổi bình minh trăng tròn tháng 4 năm 588 TCN, ngài đã hoàn toàn giác ngộ trở thành một đấng chánh đẳng, chánh giác, một vị Phật.

Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanNgự đến cội cây đa, có 3 nàng ma nữ là con gái Ma Vương đến quyến rũ, dụ dỗ nhưng Ngài chẳng ngó ngàng gì.
Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanNgự đến cội cây đa, có 3 nàng ma nữ là con gái Ma Vương đến quyến rũ, dụ dỗ nhưng Ngài chẳng ngó ngàng gì.

Dưới cội Bồ Đề, trời đổ mưa dữ dội, có rắn chúa đến cuộn quanh và bành mang che đỡ mua gió cho Ngài.
Dưới cội Bồ Đề, trời đổ mưa dữ dội, có rắn chúa đến cuộn quanh và bành mang che đỡ mua gió cho Ngài.

Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanHai thương gia đến dâng cơm cho Ngài và xin quy y trở thành hai cư sĩ đầu tiên.
Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanHai thương gia đến dâng cơm cho Ngài và xin quy y trở thành hai cư sĩ đầu tiên.

Đấng Phạm Thiên đã cầu xin Đức Phật đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Đức Phật đã nhận lời hoằng pháp độ sinh.
Đấng Phạm Thiên đã cầu xin Đức Phật đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Đức Phật đã nhận lời hoằng pháp độ sinh.

Ngài nghĩ đến chúng sanh cũng như bốn loại hoa sen.
Ngài nghĩ đến chúng sanh cũng như bốn loại hoa sen.


ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ tri hiểu biết sự chấm dứt các pháp trầm luân. Ngài biết như thật "đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa đến diệt khổ". Ngài biết như thật "đây là những ô nhiễm (lậu hoặc), đây là nguyên nhân của các lậu hoặc, đây là sự diệt trừ những lậu hoặc, đây là con đường diệt trừ các lậu hoặc". Lần lượt ngài nhận thức tiếp : "Đây là phiền não, đây là nguyên nhân của phiền nào, đây là sự chấm dứt phiền não, đây là con đường đưa đến chấm dứt phiền não".. v.v... và. v.v... Nhận thức như thế, tâm Ngài thoát khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), thoát khỏi hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và thoát khỏi vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh). Ngài chứng Lậu Tận Minh khi trời hừng sáng. Bấy giờ Ngài biết mình đã được giải thoát, Ngài nhận thức rằng: "Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã viên mãn, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa"  (Kinh Trung Bộ 1, Đại Kinh Saccaka, số 37, trg 541-543)

Khi ngự hành để độ cho 5 anh em Kiều Trần Như, Ngài gặp ngoại đạo Upakajivaka giữa đường.
Khi ngự hành để độ cho 5 anh em Kiều Trần Như, Ngài gặp ngoại đạo Upakajivaka giữa đường.

Đức Phật đã chuyển pháp luân đầu tiên tại Lộc Uyển(vườn Nai) gần thành Ba La Nại(Benares). Ngài đã giảng bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế cho 5 anh em Kiều Trần Như. Sau này cả 5 người này đều đắc quả A-la-hán
Đức Phật đã chuyển pháp luân đầu tiên tại Lộc Uyển(vườn Nai) gần thành Ba La Nại(Benares). Ngài đã giảng bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế cho 5 anh em Kiều Trần Như. Sau này cả 5 người này đều đắc quả A-la-hán

Trưởng giả Yasa (Da Xá) chán chường gia cảnh, đi vào rừng gặp Đức Phật, được nghe pháp và đắc quả Arahanta (A La Hán) xuất gia thành Tỳ-khưu.
Trưởng giả Yasa (Da Xá) chán chường gia cảnh, đi vào rừng gặp Đức Phật, được nghe pháp và đắc quả Arahanta (A La Hán) xuất gia thành Tỳ-khưu.

Bên dòng sông Neranjara, Đức Phật gặp Uruvela Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp) và đồ chúng là những người theo đạo thờ lửa.
Bên dòng sông Neranjara, Đức Phật gặp Uruvela Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp) và đồ chúng là những người theo đạo thờ lửa.


Ðức Phật chỉ tay sang bờ sông bên kia nói:

– Này tôn giả Kassapa, nếu có người đang đứng bên này sông muốn sang bờ bên kia thì người ấy phải làm gì?


– Người ấy phải lội qua sông hoặc phải dùng thuyền chèo qua bên kia.

– Ðúng vậy. Nhưng nếu có người muốn qua sông mà không chịu lội, cũng không dùng thuyền, chỉ lập đàn cúng tế và khấn nguyện thì tôn giả nghĩ sao?

– Tôi cho rằng người đó không thực tế, và không biết chừng nào người đó mới qua sông được.

– Cũng vậy, Ðức Phật nói, nếu không tu tập quán chiếu để diệt trừ vô minh, tham ái và phiền não thì ta không đạt tới bờ giải thoát được, dù ta có tế lễ, khẩn cầu suốt cả cuộc đời.

Ðạo sĩ Uruvela Kassapa bỗng sụp lạy dưới chân Phật. Ông khóc nức nở và nói:

– Kính lạy Thầy, con đã lầm lỡ gần hết cuộc đời, giờ đây xin thầy chấp nhận con làm đệ tử của Thầy để con có cơ duyên học hỏi và tu tập con đường giải thoát.

– Lành thay! Nhưng còn các đệ tử của ông thì sao?

– Xin thầy cho con có dịp tiếp xúc với họ. Chiều mai con sẽ xin trình thầy quyết định của con.

Hai ngày sau, Uruvela Kassapa và tất cả 500 đệ tử đều cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa. Họ liệng xuống sông Nairanjana tất cả những búi tóc, hình tượng và dụng cụ tế lễ, rồi tập họp trước mặt Đức Phật, quỳ xuống, đồng nói lớn:

” Con xin quy y Phật, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời này.
” Con xin quy y Pháp, con đường của tình thương và sự giác ngộ.
” Con xin quy y Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.

Sau lễ xuất gia, đức Phật giảng cho 500 vị tân tỳ khưu về Tứ Diệu Ðế, Vô Ngã, phép quán hơi thở, thân thể và tâm ý, phép khất thực và tĩnh cư.


Thủy tai hoành hành, nước lụt ngập tràn nhưng không đến được chỗ Ngài ngự, các tu sĩ bện tóc thấy điều diệu kỳ bèn xin xuất gia theo.
Thủy tai hoành hành, nước lụt ngập tràn nhưng không đến được chỗ Ngài ngự, các tu sĩ bện tóc thấy điều diệu kỳ bèn xin xuất gia theo.

Đức vuaBimbisara (Tần Bà Sa) làm phước hồi hướng đến bà con quyến thuộc đã quá vãng là những ngạ quỷ. Những ngạ quỷ này tùy hỷ nhận phần phước.
Đức vua Bimbisara (Tần Bà Sa) làm phước hồi hướng đến bà con quyến thuộc đã quá vãng là những ngạ quỷ. Những ngạ quỷ này tùy hỷ nhận phần phước.

Ngài Moggallana (Mục Kiền Liên) và Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) đến xin xuất gia về sau đắc quả A La Hán trở thành nhị vị Thượng thủ đệ tử phía Tả và phía Hữu.
Ngài Moggallana (Mục Kiền Liên) và Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) đến xin xuất gia về sau đắc quả A La Hán trở thành nhị vị Thượng thủ đệ tử phía Tả và phía Hữu.

Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanĐức Phật truyền dạy Ovada-patimokkha (Giải thoát giáo) đến 1250 vị Thánh tăng A La Hán vào đêm rằm tháng giêng.
Đức Phật truyền dạy Ovada-patimokkha (Giải thoát giáo) đến 1250 vị Thánh tăng A La Hán vào đêm rằm tháng giêng.

Thân phụ của Đức Phật là vua Tịnh Phạn đã già yếu. Nghe tin Đức Phật giảng pháp ở thành Vương Xá(Rajagaha), vua bèn sai sứ giả đến mời Đức Phật về thành Ca Tỳ La Vệ(Kapilavatthu). Cả 9 vị sứ giả vua sai đi khi đến nơi thì đều nghe được Phật thuyết pháp, xin xuất gia và thành quả A-la-hán. Đến vị sứ giả thứ 10 đến (vị này tên là Kaludayi vốn trước đây từng là bạn thân của Đức Phật khi ngài còn là thái tử), sau khi nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và đắc quả A-la-hán nhưng cũng không quên chuyển lời của vua Tịnh Phạn đến Đức Phật. Đức Phật nghe xong đã nhận lời và cùng các thánh đệ tử lên đường về thăm gia đình.
Thân phụ của Đức Phật là vua Tịnh Phạn đã già yếu. Nghe tin Đức Phật giảng pháp ở thành Vương Xá(Rajagaha), vua bèn sai sứ giả đến mời Đức Phật về thành Ca Tỳ La Vệ(Kapilavatthu). Cả 9 vị sứ giả vua sai đi khi đến nơi thì đều nghe được Phật thuyết pháp, xin xuất gia và thành quả A-la-hán. Đến vị sứ giả thứ 10 đến (vị này tên là Kaludayi vốn trước đây từng là bạn thân của Đức Phật khi ngài còn là thái tử), sau khi nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và đắc quả A-la-hán nhưng cũng không quên chuyển lời của vua Tịnh Phạn đến Đức Phật. Đức Phật nghe xong đã nhận lời và cùng các thánh đệ tử lên đường về thăm gia đình.

ngày thứ 2 sau khi về thăm nhà, nhà vua mở tiệc ở Hoàng cung và mời Đức Phật cùng thánh đệ tử thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật cùng vua cha và 2 thánh đệ tử là ngài Xá Lợi Phất(Sariputta) và ngài Mục Kiền Liên(Moggalana) đã đến phòng công chúa Da Du Đà La. Sau khi vào phòng, Đức Phật đã ngồi vào chổ sắp sẳn. Sau khi công chúa đảnh lễ ngài, ngài đã thuyết giảng chuyện bổn sanh Candakinnara để nói về mối liên hệ giữa ngài và công chúa. Ngài đã khen ngợi công chúa: “Không phải chỉ trong kiếp sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh mộ và trung thành với Như Lai.”. Sau đó ngài đã an ủi công chúa và giã từ hoàng cung. Về sau công chúa Da Du Đà La cũng xuất gia theo Đức Phật và đã đắc quả A-la-hán. Trong hàng các vị tăng ni thì bà Da Du Đà La đã chứng đắc thần thông cao nhất (Maha Abhinna)
ngày thứ 2 sau khi về thăm nhà, nhà vua mở tiệc ở Hoàng cung và mời Đức Phật cùng thánh đệ tử thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật cùng vua cha và 2 thánh đệ tử là ngài Xá Lợi Phất(Sariputta) và ngài Mục Kiền Liên(Moggalana) đã đến phòng công chúa Da Du Đà La. Sau khi vào phòng, Đức Phật đã ngồi vào chổ sắp sẳn. Sau khi công chúa đảnh lễ ngài, ngài đã thuyết giảng chuyện bổn sanh Candakinnara để nói về mối liên hệ giữa ngài và công chúa. Ngài đã khen ngợi công chúa: “Không phải chỉ trong kiếp sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh mộ và trung thành với Như Lai.”. Sau đó ngài đã an ủi công chúa và giã từ hoàng cung. Về sau công chúa Da Du Đà La cũng xuất gia theo Đức Phật và đã đắc quả A-la-hán. Trong hàng các vị tăng ni thì bà Da Du Đà La đã chứng đắc thần thông cao nhất (Maha Abhinna)

Đức Phật giao cho Xá Lợi Phất làm thầy tế độ cho hoàng nhi La Hầu La xuất gia làm vị Sa-di đầu tiên trong Giáo đoàn.
Đức Phật giao cho Xá Lợi Phất làm thầy tế độ cho hoàng nhi La Hầu La xuất gia làm vị Sa-di đầu tiên trong Giáo đoàn.


Lúc Đức Phật ở tinh xá Kỳ Viên, Ngài dạy La-hầu-la tu tập pháp quán niệm hơi thở, quán niệm về ngũ đại, quán niệm về tứ vô lượng tâm, quán tứ niệm xứ. Khi quán về địa đại, 


Đức Phật dạy La-hầu-la hãy tu tập như đất, chấp nhận tất cả thuận nghịch ở đời. “Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập như đất. Này Rahula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rahula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ không tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rahula, hãy tu tập như đất” (Kinh Trung bộ, số 62, Đại kinh Giáo giới La-hầu-la).


Bằng trí tuệ, Ngài quán xét chúng sanh và thấy Angulimala (Ương-câu-lê-ma-la) sẽ giết mẹ rồi bị đọa vào A-tỳ địa ngục
Bằng trí tuệ, Ngài quán xét chúng sanh và thấy Angulimala (Ương-câu-lê-ma-la) sẽ giết mẹ rồi bị đọa vào A-tỳ địa ngục

Angulimala đuổi theo Đức Phật nhưng chẳng kịp bèn gọi Ngài hãy dừng lại. Ngày dạy: “Ta đã dừng rồi còn ngươi chưa chịu dừng”.
Angulimala đuổi theo Đức Phật nhưng chẳng kịp bèn gọi Ngài hãy dừng lại. Ngày dạy: “Ta đã dừng rồi còn ngươi chưa chịu dừng”.


Ðại đức Angulimāla vốn tên thật là Ahiṁsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn, trong một gia đình quý tộc nhiều đời. 

Thân mẫu Ngài tên Mantanī; thân phụ Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.

Trong đêm Ngài sinh ra đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Ðức vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh sáng thép lạnh buốt, làm cho Ðức vua kinh hoàng.

Ông Bà la môn, thân phụ của Ngài Angulimāla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao “kẻ cướp sát nhân” vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào đời của ông. Sau này nó sẽ trở thành tên cướp giết người khét tiếng!


Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) biểu diễn thần thông cho Thái tử Ajatasattu (A Xà Thế), con Đức vua Bimbisara, nảy sinh đức tin nhằm hy vọng Thái tử bằng lòng theo kế hoạch xấu xa của mình.
Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) biểu diễn thần thông cho Thái tử Ajatasattu (A Xà Thế), con Đức vua Bimbisara, nảy sinh đức tin nhằm hy vọng Thái tử bằng lòng theo kế hoạch xấu xa của mình.


Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là con trai của hoàng thân Suppabuddha và hoàng nương Pamita. 


Ông là anh em chú bác của Thái Tử Tất Đạt Đa (Siddhatta), và cũng là anh ruột của công chúa Da Du Đà La (Yasodhara), hay cậu La Hầu La (Rahula). 

Với tính tình nỏng nảy, Đề Bà Đạt Đa, đối lập hoàn toàn với Thái tử Tất Đạt Đa. Cả hai vốn có nhân duyên hạnh ngộ từ vô số kiếp trước, trong đời nào Đề Bà Đạt Đa cũng luôn là kẻ kiêu căng gây hấn trong khi Thái tử Tất Đạt Đa luôn hòa nhã khiêm cung. Về sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật, các tăng sĩ đã thỉnh giảng vì Đề Bà Đạt Đa luôn ganh đua với Ngài và do nhân duyên gì hai người lại luôn hạnh ngộ trong các kiếp, để rồi Đề Bà Đạt Đa luôn tìm cách hãm hại Ngài.


Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanDevadatta cho thợ săn đến sát hại Đức Phật, nhưng gặp Ngài rồi lại nẩy sinh đức tin trong sạch và buông vũ khí, nghe Pháp đắc đạo.
Devadatta cho thợ săn đến sát hại Đức Phật, nhưng gặp Ngài rồi lại nẩy sinh đức tin trong sạch và buông vũ khí, nghe Pháp đắc đạo.

Devadatta biết lỗi, buồn rầu đến độ hộc máu, muốn được sám hối, nhưng cuối cùng đã bị đất rút xuống hỏa ngục trước khi được gặp Đức Phật.
Devadatta biết lỗi, buồn rầu đến độ hộc máu, muốn được sám hối, nhưng cuối cùng đã bị đất rút xuống hỏa ngục trước khi được gặp Đức Phật.



Các Tỳ khưu khiêng Devadatta về đến hồ sen trong chùa, bèn để giường xuống bên hồ và xuống hồ tắm rửa. 

Khi ấy, Devadatta tự mình ráng ngồi dậy, định bước xuống giường, vừa đặt chân đứng lên thì ông ta bị đất sụp lún mất hai bàn chân, kế đến hai mắt cá, rồi hai đầu gối, hai bắp vế, lần tới ngực, cuối cùng khi xương quai hàm của ông nằm ngang mặt đất thì ông góp hết hơi tàn đọc lên bài kệ tuyệt mạng sau
đây:

“Imehi aṭṭhīhi tamaggapuggalaṃ,
Devātidevaṃ naradammasārathiṃ;
Samantacakkhuṃ satapuññalakkhaṇaṃ,
Pāṇehi buddhaṃ saraṇaṃ gatosmīti”.

“Bằng hơi sót với xương tàn trên đất,
Con quy y cùng Đức Phật tuyệt luân.
Chúa chư Thiên, thầy huấn luyện nhân quần,
Bậc Phổ Nhãn, có tướng thuần trăm đức”.

Tới giai đoạn nầy, có giả thuyết cho rằng: “Đức Như Lai đã làm lễ cho Devadatta xuất gia Tỳ khưu lại vì Ngài nghĩ rằng: “Nếu không như vậy thì ông ta chỉ là người cư sĩ, không có hy vọng giữ được đức tin Tam Bảo trong ngày vị lai và chịu đựng hậu quả nặng nề của tội ngũ nghịch mà ông đã phạm”.

Khi ông đã được xuất gia lại rồi, thì dù cho nghiệp quả có nặng nề đi nữa, ông vẫn còn giữ được đức tin và nhẫn nại mà chịu đền tội, do đó Đức Bổn Sư đã cho ông xuất gia lại”.

(Về sau khi mãn một trăm ngàn đại kiếp của quả địa cầu, Devadatta ta sẽ đắc quả Bích Chi Phật (Paccekabuddha), tức là Phật Độc Giác, có hồng danh là Aṭṭhissara.)

Thần y Jivaka Komarabhacca, bác sĩ thường trực của Đức Phật chế thuốc chữa cho Ngài đến lúc khỏi bệnh.
Thần y Jivaka Komarabhacca, bác sĩ thường trực của Đức Phật chế thuốc chữa cho Ngài đến lúc khỏi bệnh.

Đức Phật cho phép Tỳ-khưu được mặc y do thí chủ dâng cúng, không nhất thiết chỉ mặc một loại y pamsukula (phấn tảo y) theo lời thỉnh cầu của thần y Jivaka.
Đức Phật cho phép Tỳ-khưu được mặc y do thí chủ dâng cúng, không nhất thiết chỉ mặc một loại y pamsukula (phấn tảo y) theo lời thỉnh cầu của thần y Jivaka.

Ngài ngăn cản không cho hai phía bà con bên ngoại và bên nội tranh giành nhau sử dụng nước từ con sông Rohini (Rô-hi-ni) chảy qua.
Ngài ngăn cản không cho hai phía bà con bên ngoại và bên nội tranh giành nhau sử dụng nước từ con sông Rohini (Rô-hi-ni) chảy qua.

Khi vua Tịnh Phạn hấp hối, Đức Phật đã đến bên giường bệnh và giảng pháp lần cuối cùng cho vua cha. Vua Tịnh Phạn nghe xong liền đắc quả A-la-hán. Sau khi hưởng sự an lạc trên trần thế được 7 ngày, vua Tịnh Phạn nhập niết bàn.
Khi vua Tịnh Phạn hấp hối, Đức Phật đã đến bên giường bệnh và giảng pháp lần cuối cùng cho vua cha. Vua Tịnh Phạn nghe xong liền đắc quả A-la-hán. Sau khi hưởng sự an lạc trên trần thế được 7 ngày, vua Tịnh Phạn nhập niết bàn.

Biểu thị song thần thông, uy hiếp chúng ngoại đạo bằng cách trồng hạt xoài và tưới bằng nước rửa tay, chốc lát cây xoài mọc lên rất nhanh.
Biểu thị song thần thông, uy hiếp chúng ngoại đạo bằng cách trồng hạt xoài và tưới bằng nước rửa tay, chốc lát cây xoài mọc lên rất nhanh.

Ngài hiện thân lên cung trời Tavatimsa (Đao Lợi) nhập hạ, thuyết tạng Vi Diệu Pháp độ Phật mẫu Maya (Ma-ya)
Ngài hiện thân lên cung trời Tavatimsa (Đao Lợi) nhập hạ, thuyết tạng Vi Diệu Pháp độ Phật mẫu Maya (Ma-ya)



Theo lịch sữ Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên – Tāvatiṃsa) với mục đích là độ thân mẫu của Ngài.


Theo một vài học giã thì Vi Diệu Pháp không phải do chính Ðức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Ðại Ðức Nārada, một nhà học Phật lão thành đã viết: “Ðúng theo truyền thống thì chính Ðức Phật đã dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là Ðầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lý như Pháp Thiện (Kusalā Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Ký (Abyākatā Dhammā) …”.

Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tổng – Kathāvatthu – do Ngài Mục Kiền Liên (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết cho rằng tập này do chính Ðức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500 câu) đều do Ðức Phật thuyết và Ðại Ðức Xá lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp là một công trình sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật.

Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có phải do chính Ðức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rõ được chân lý thì người đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người đó mới nói lên được sự thật.

Ngài Ananda (A Nan) cầu thỉnh Đức Phật tiếp tục trụ thế độ sinh, nhưng ngài dạy rằng đã quyết rồi, ba tháng nữa sẽ nhập Đại Niết Bàn.
Ngài Ananda (A Nan) cầu thỉnh Đức Phật tiếp tục trụ thế độ sinh, nhưng ngài dạy rằng đã quyết rồi, ba tháng nữa sẽ nhập Đại Niết Bàn.

Ngài nhận bữa ăn cuối cùng từ ông Cunda (Thuần Đà), căn dặn phần còn lại đem chôn đi.
Ngài nhận bữa ăn cuối cùng từ ông Cunda (Thuần Đà), căn dặn phần còn lại đem chôn đi.

Ngự hành đến thành Kusinara (Câu Thi Na), Ngài lâm bệnh nặng, cho thị giả Ananda múc nước uống đỡ khát.
Ngự hành đến thành Kusinara (Câu Thi Na), Ngài lâm bệnh nặng, cho thị giả Ananda múc nước uống đỡ khát.

Truyền cho ngài Ananda chuẩn bị chỗ nghỉ dưới hai cội cây sala đang trổ hoa thơm ngào ngạt. Ngài nằm nghiêng xuống, quyết không dậy nữa.
Truyền cho ngài Ananda chuẩn bị chỗ nghỉ dưới hai cội cây sala đang trổ hoa thơm ngào ngạt. Ngài nằm nghiêng xuống, quyết không dậy nữa.

Đức Ananda dằn lòng không được khóc lóc than vãn bên ngoài.
Đức Ananda dằn lòng không được khóc lóc than vãn bên ngoài.

Căn dặn chư Tăng lấy Pháp và Luật làm thầy, rồi nhập Niết Bàn.  Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanNgài Mahakassapa (Đại Ca Diếp) làm thượng thủ tổ chức chư Thánh Tăng kết tập tam tạng tại thành Rajagaha (Vương Xá), tiếp nối tuổi thọ Phật giáo cho đến ngày nay.
Căn dặn chư Tăng lấy Pháp và Luật làm thầy, rồi nhập Niết Bàn.  Lược sử Đức Phật - 63 tranh - Thái LanNgài Mahakassapa (Đại Ca Diếp) làm thượng thủ tổ chức chư Thánh Tăng kết tập tam tạng tại thành Rajagaha (Vương Xá), tiếp nối tuổi thọ Phật giáo cho đến ngày nay.



Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

KINH PHÁP CÚ 91 TRANH KHỔ LỚN - Phanblogs

4 thg 6, 2022 ... Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Trái lại, quy y Phật, Pháp, Tăng, phát trí tuệ chơn chánh, hiểu biết bốn lẽ mầu: Biết khổ, biết khổ ...