Search

Hiển thị các bài đăng có nhãn topica. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn topica. Hiển thị tất cả bài đăng

17.11.15

Phân tích nội dung của chuẩn bị đàm phán

Phanblogs Phân tích nội dung của chuẩn bị đàm phán? Cho ví dụ minh họa 

Bài Làm :

 Đàm phán là quá trình 2 hoặc nhiều bên có những lợi ích chung và lợi ích xung đột, cùng nhau tìm ra và thống nhất 1 giải pháp để giải quyết vấn đề.


VD minh họa như sau : Công ty TNHH BÔ LÔ BA LA VIỆT NAM có nhu cầu trở thành nhà phân phối độc quyền sản phẩm Bánh Bèo của nhà sản xuất là hợp tác xã BA LA BÔ LÔ. Việc đàm phán được thể hiện qua quá trình thương lượng và chỉnh sửa, ký kết hợp đồng phân phối sản phẩm giữa hai bên Bên A ( NXS) và bên B ( Cty BÔ LÔ BA LA)

Bước 1 Chuẩn bị đàm phán
Chuẩn bị là công việc quan trọng và cần thiết trước khi làm bất cứ điều gì. Đối với đàm phán, chuẩn bị còn là công việc thiết yếu để đàm phán thành công. Chuẩn bị giúp cho người đàm phán sự tự tin cần thiết khi đàm phán. Ngược lại, nếu không chuẩn bị hoặc chuẩn bị không chu đáo sẽ khiến người đàm phán bị động, bộc lộ điểm yếu và có thể rơi vào thế bất lợi.
Chuẩn bị đàm phán bao gồm các công việc cụ thể sau:
I) Xác định các mục tiêu đàm phán
Một trong những nguyên nhân đàm phán thất bại đó là vì xác định sai mục tiêu hoặc đặt mục tiêu không khả thi. Do vậy cần xác định đúng mục tiêu đàm phán của mình là gì.
a)     Xác định nhu cầu: Đàm phán là để thoả mãn một nhu cầu nào đó vì vậy hiểu rõ nhu cầu cũng chính là cơ sở cho việc xác định mục tiêu đàm phán. Người đàm phán cần hiểu rõ mình thực sự cần gì. Cần phân biệt rõ những điều mình cần với những điều mình muốn.
Bảng dưới đây chỉ rõ các mong muốn và nhu cầu của bên B ( công ty TNHH BÔ LÔ BA LA). Chúng ta sẽ phân tích các vấn đề trong VD minh họachuẩn bị đàm phán trên vai trò Mr P giám đốc công ty TNHH BÔ LÔ BA LA

Mong Muốn
Nhu cầu
Ký kết được hợp đồng phân phối
Phát triển thị trường, tạo thêm lợi nhuận, sản phẩm và việc làm cho công ty
Phân phối độc quyền miền Bắc
Giảm cạnh tranh, tăng sự ổn đinh, lợi thế phát triển thị trường trong tương lai
Chiết khấu cao trên 30% - 50%
Tăng lợi nhuận
Doanh số cam kết kiêu thụ / năm thấp
Giảm áp lực công việc
Hợp đồng trên 2 năm
Độ ổn định của thị trường, công việc
Miễn phí vận chuyển hàng hóa cho bên B
Giảm chi phí
Hợp đồng ký trước tháng 12/2015
Cần 1 đến 2 tháng để chuẩn bị hậu cần, nhân sự, làm thương hiêu , quảng cáo. Và đích ngắm tung hàng vào dịp tết Âm lịch

Theo như nhận đinh của Mr P thị trường miền Bắc chưa có sự cạnh tranh nhiều về mặt hàng này. Khả năng phát triển là có : Xét các điều kiện trên nếu các doanh nghiệp nào đáp ứng được các điều kiện cung cấp mặt hàng như trên đều có thể tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng với bên B. Không phải duy nhất NSX BA LA BÔ LÔ đáp ứng được
Như vậy xác định đúng nhu cầu thực sự giúp người đàm phán không mất định hướng trong quá trình đàm phán và linh hoạt hơn trong việc tìm ra các giải pháp thoả mãn nhu cầu.
•           Xác định các phạm vi đàm phán: Việc tất cả các mong muốn đều được đáp ứng thường hiếm khi xảy ra. Trong đàm phán, mong muốn của chúng ta thường bị giới hạn bởi mong muốn của đối tác đàm phán. Luôn nhớ, đàm phán là quá trình trao đổi lợi ích giữa các bên vì vậy người đàm phán cần chuẩn bị trao đổi.
Chuẩn bị trao đổi nghĩa là phải xác định được mức độ nhượng bộ trong mỗi mong muốn và những mong muốn nào có thể hy sinh, những mong muốn nào thì không thể. Để làm được điều đó cần phải xác định phạm vi các mong muốn của mình
Xác định phạm vi cho các mong muốn của mình: Là xác định giới hạn trên và giới hạn dưới. Chúng ta sẽ ngưng đàm phán nếu vượt qua giới hạn đó.



Ví dụ: Chúng ta xác định phạm vi mong muốn về hợp đồng của Mr P như sau
Mong muốn
Tối thiểu
Lý tưởng
Tối đa
Ký kết được hợp đồng phân phối
Ký kết được hợp đồng phân phối
Ký kết được hợp đồng phân phối
Ký kết được hợp đồng phân phối, thêm 2 mã SP từ Bên B
Phân phối độc quyền miền Bắc
Phân phối độc quyền miền Hà Nội
Phân phối độc quyền miền Bắc
Phân phối độc quyền miền Cả nước
Chiết khấu cao trên 30% - 50%
30%
50%
70%
Doanh số cam kết kiêu thụ / năm thấp
500 triệu
200 triệu
800 triệu
Hợp đồng trên 2 năm
1 năm
2 năm
3 năm
Doanh số cam kết kiêu thụ / năm thấp
500 triệu
200 triệu
800 triệu
Miễn phí vận chuyển hàng hóa cho bên B
Bên A chịu 50% chi phí vận chuyển
Bên A chịu 80% chi phí vận chuyển
Bên A chịu 100% chi phí vận chuyển
Hợp đồng ký trước tháng 12/2015
28/11/2015
18/10/2015
18/11/2015
•           Phân loại các mong muốn: Có thể chia các mong muốn thành 3 nhóm sau:
o          Thiết yếu: Những mong muốn nhất định phải được đáp ứng.
o          Quan trọng: Những mong muốn cần được đáp ứng.
o          Có thì tốt: Những mong muốn có thể bỏ qua mà không ảnh hưởng nhiều.



Ví dụ: Phân loại mong muốn các yêu cầu của Mr P như sau:

Thiết Yếu
Chiết khấu cao trên 30%
Hợp đồng từ 1 năm trở lên
Hợp đồng ký trước tháng 12/2015
Quan trọng
Phân phối độc quyền miền Bắc
Có thì tốt
Miễn phí vận chuyển hàng hóa cho bên A
Doanh số cam kết kiêu thụ / năm thấp
Các yêu cầu đặt ra cũng như việc phân loại tầm quan trọng của mỗi yêu cầu sẽ rất khác nhau ở các doanh nghiệp khác nhau. Đối tác đàm phán cũng có thể có những yêu cầu và cũng phân loại chúng.
II) Thu thập thông tin đàm phán
Thông tin là tài sản quan trọng nhất trong đàm phán vì nó mang đến cho người đàm phán những lợi thế trong quá trình đàm phán và giúp cho người đàm phán tự tin hơn khi đánh giá đúng những đề nghị của đối tác cũng như những thông tin mà họ đưa ra.
Có nhiều cách thu thập thông tin:
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Thông tin từ các nhà cung cấp hoặc các trung gian môi giới.
Kinh nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp.
Các thông tin người đàm phán cần biết xoay xung quanh vấn đề đàm phán như: giá cả, chất lượng, chủng loại, thời gian giao nhận, nhà cung cấp, người mua, các yêu cầu đưa ra có khả thi không…
Kết quả của việc thu thập thông tin là giúp được người đàm phán:
Đánh giá tính khả thi của các yêu cầu và điều chỉnh mục tiêu. Lựa chọn một hoặc một vài đối tác đàm phán.

III) Xác định các phương án thay thế
Xác định được các phương án khác nhau có thể thoả mãn nhu cầu của doanh nghiệp
Các bước để xây dựng phương án thay thế tốt nhất là:
•           Bước 1: Nghĩ ra càng nhiều phương án thay thế càng tốt Ví dụ: Nếu không đàm phán được mặt hàng Bánh Bèo với bên A, liệu có mặt hàng nào của bên A đáp ứng được nhu cầu của bên B lúc này ? Có chắc rằng bên A là sư lựa chon duy nhất lúc này hay còn bên C nào khác đáp ứng được nhu cầu hiện tại của bên B
•           Bước 2: Lựa chọn những phương án triển vọng nhất và biến chúng thành hiện thực. Ví dụ: Gần đây bên C cũng nổi lên một mặt hàng tương ứng về mảng thực phẩm chức năng là bánh không bèo, liệu phương án đó có thay thế trong trường hợp không đàm phán thành công với bên A. Mà bên B đang cần hàng để phục vụ dịp tết âm lịch ?
•           Bước 3: Đánh giá xem phương án thay thế nào là tốt nhất: Để đánh giá cần có tiêu chí đánh giá chính là mức độ đáp ứng nhu cầu của mỗi phương án. VD: sau khi suy xét và tinh toán thấy rằng chi phí triển khai với bên A nếu thành công là 25 triêu. Kỳ vọng lãi ròng 6 tháng là 60 triệu. Chi phí triển khai với bên C nếu thành công là 15 triệu. Kỳ vọng lãi ròng 6 tháng là 30 triệu. Trường hợp xấu nhất Mr P vẫn chọn bên nào thành công trước trong đàm phán để có hàng tung dịp tết, tạo công việc cho nhân viên.
Trong thực tế, các nhà đàm phán thường quá chú trọng việc đàm phán mà quên xem xét những phương án thay thế cho cuộc đàm phán đó. Hiểu được giá trị của phương án thay thế tốt nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ giúp người đàm phán tránh được những cuộc đàm phán không cần thiết mà còn giúp họ tránh được những thoả thuận bất lợi. Ngoài ra phương án thay thế tốt nhất còn là cơ sở khách quan để biết được khi nào thì nên rút lui.

IV) Tìm hiểu về đối tác đàm phán
Sau khi đã chọn được đối tác đàm phán, doanh nghiệp cần tìm hiểu các thông tin về đối tác đàm phán. Chưa hẳn có càng nhiều thông tin thì càng tốt mà quan là phải có những thông tin cần thiết. Những thông tin quan trọng có thể là:
•           Mục tiêu đàm phán của họ tình hình tài chính, doanh số của họ trong thời gian gần đây,…?
Mr P đã có thông tin về NSX QT . Sản lượng bình quân một tháng của họ là 2 tấn bánh bèo. Như vậy họ đáp ứng tốt về nguồn cung sản phẩm.
•           Phương án thay thế tốt nhất của đối tác nếu không đạt được thoả thuận là gì?
Nếu việc đàm phán không thành công bên A kỳ vọng bên B chuyển thành mua đứt bán đoạn điều này cũng là một khả năng để ngỏ để làm dữ liệu trong đàm phán leo thang.
•           Các thành viên tham gia đàm phán (Ai? Làm gì? có nhiều kinh nghiệm không? Có phải là những nhà đàm phán chuyên nghiệp không? Có vai trò gì? Có quyền ra quyết định không? Thói quen, sở thích của họ?...)
Việc quyết định hợp đồng này của bên A là do chủ tịch NSX đứng ra đàm phán và toàn quyền quyết đinh. Đây là một thuận lợi nhưng cũng là khó khăn cho bên B.
Hiện nay bên A đang thừa nguyên liệu và thiếu đầu ra, các đối tác của A là các đại lý nhỏ lẻ, độ phủ ước tính 30% cả nước v v.
Bên Achưa biết gì về bên B vì vậy cần giới thiệu cụ thể về năng lực của bên B để làm cơ sở đàm phán cân bằng .

•           Đối tác đàm phán có biết gì về doanh nghiệp mình không? Có thể tìm kiếm các thông tin về đối tác thông qua:
•           Hỏi đối tác.
•           Tìm hiểu các cuộc đàm phán tương tự của đối tác trong quá khứ.
•           Tình hình hoạt động hiện tại của đối tác đàm phán.
•           Những thông tin thị trường có liên quan đến đối tác đàm phán.
 Thường thì chúng ta sẽ không thể biết tất cả các thông tin về đối tác đàm phán, do vậy chúng ta sẽ phải đưa ra những giả định dựa trên kinh nghiệm của mình hoặc dựa trên những nguồn thông tin sẵn có. Trên cơ sở những thông tin về mục tiêu đàm phán của đối tác, đối chiếu với mục tiêu đàm phán của mình để dự đoán những vấn đề đàm phán.
V).Xác định chiến lược và chiến thuật đàm phán
Phải xác định một chiến lược cụ thể để đạt được mục tiêu đề ra. Những việc cần phải làm:
•           Thành lập đoàn đàm phán
Đàm phán có thể diễn ra giữa hai cá nhân hoặc hai nhóm. Những cuộc đàm phán lớn, vấn đề phức tạp đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Lợi thế có được với một nhóm đàm phán là:
o          Kiến thức của nhóm rộng hơn và khả năng đa dạng hơn.
o          Các thành viên có thể đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau, thậm chí đóng những vai trò khác nhau.
o          Tuy nhiên, nhóm đàm phán cũng có những bất lợi như: phối hợp không ăn ý, mâu thuẫn giữa các thành viên. Do đó khi lập nhóm đàm phán cần phải chú ý:
         Nếu nhóm đàm phán quá lớn, việc phối hợp sẽ trở nên khó khăn hơn. Nhưng nếu nhóm đàm phán quá nhỏ, các thành viên trong nhóm sẽ bị phân tán trong nhiều vai trò và nhiệm vụ khác nhau.
         Nên lựa chọn các thành viên trong nhóm có các kỹ năng, khả năng và kinh nghiệm bổ sung lẫn nhau.
         Phải phân công rõ vai trò và nhiệm vụ của từng thành viên
         Các thành viên phải tin tưởng lẫn nhau
Các thành viên trong một đoàn đàm phán thường đảm nhận một trong ba vai trò cơ bản sau:
o          Vai trò lãnh đạo: Người đảm nhận vai trò này thường là trưởng đoàn đàm phán và thường đảm nhận nhiệm vụ: điều khiển cuộc thảo luận, đưa ra đề xuất trọn gói, đề nghị trao đổi các điều kiện, đề nghị tạm dừng đàm phán.
o          Vai trò tổng kết (gây khó khăn): Người đóng vai trò này luôn cảnh giác với những gì đối tác nói hay làm và thường đảm nhận các nhiệm vụ như: Đặt câu hỏi cho phía đối tác, giải thích những thắc mắc của đối tác để làm rõ vấn đề, tóm tắt những nội dung thảo luận vào những thời điểm thích hợp, “câu giờ” để cho người lãnh đạo có thời gian suy nghĩ, đảm bảo cuộc đàm phán đi đúng hướng, không bỏ qua bất kỳ 1 ý kiến nào, bảo vệ mục tiêu.
o          Vai trò quan sát (tạo thuận lợi): Người đóng vai trò này sẽ thúc đẩy việc đạt được thoả thuận và hiểu quan điểm của đối tác. Những nhiệm vụ mà người này thường đảm nhận bao gồm: theo dõi cuộc thảo luận, lắng nghe, ghi chép, phán đoán những sự thật bị che dấu trong quá trình đàm phán và giữ yên lặng.
Khi phân công vai trò cho các thành viên, cần cân nhắc sự phù hợp giữa khả năng và nhiệm vụ mà họ phải đảm nhận. Để nhóm đàm phán phối hợp hiệu quả, các thành viên trong nhóm đàm phán cần được chuẩn bị kỹ năng đàm phán cũng như những hiểu biết về vấn đề đàm phán.
•           Chuẩn bị chương trình và nội dung đàm phán
Xây dựng chương trình cụ thể những việc cần phải làm, những vấn đề sẽ đề cập, thời gian cho mỗi nội dung sẽ giúp các bên đàm phán chủ động trong quá trình đàm phán. Để không xảy ra những tranh cãi giữa các bên đàm phán, chúng ta nên soạn thảo chương trình rồi đề nghị đối tác điều chỉnh, bổ sung. Sau đó các bên sẽ cùng thống nhất chương trình làm việc cụ thể.
•           Những chiến thuật sẽ sử dụng trong đàm phán
Chiến thuật là những hành động, là cách chúng ta đối phó với đối tác đàm phán. Một chiến thuật thường liên quan đến hoàn cảnh và bối cảnh của từng cuộc đàm phán cụ thể chứ không có một chiến thuật cho mọi cuộc đàm phán. Nhưng tất cả các chiến thuật đều phải bổ sung và phù hợp với chiến lược. Một số chiến lược thường được sử dụng như:
o          Nếu là người bán, đề nghị cao sau đó giảm từ từ. Nếu là người mua, đề nghị thấp sau đó tăng dần.
o          Không cường điệu về mình và sản phẩm.
o          Khi đạt được thoả thuận về một vấn đề, nhanh chóng chuyển qua vấn đề khác.
o          Giữ lời hứa.
o          Biết tạm ngừng đúng lúc.
o          Không bao giờ nhượng bộ một cách vô điều kiện.
o          Nhượng bộ từ từ và ngày càng ít hơn.
o          Để cho đối tác có cảm giác họ đã đạt được 1 thoả thuận tốt.
o          Thay đổi giá.
o          Sử dụng thời gian làm vũ khí thương lượng.
o          Hứa với đối phương một cách chung chung đề giành ưu thế.
o          Không gây áp lực.
o          Ghi chép tỉ mỉ.
o          Xây dựng các biểu mẫu để văn bản của minh có vẻ chính thống.
o          Lấy chính sách của công ty làm công cụ thương lượng.
o          Sẵn sàng chấp nhận những rủi ro đã lường trước.
o          Chỉ có một sự lựa chọn.
o          …
Theo nhận đinh của Mr P. Đây là một hợp đồng nhỏ, Lợi thế thuộc về bên B. Nên việc đàm phán nên triển khai gọn nhẹ bằng một buổi trực tiếp trao đổi thông tin giữa hai bên và một buổi còn lại để hoàn thành các thủ tục về giấy tờ.
Số lượng người đàm phán mỗi bên 2 người 1 phó giám đốc ( người trực tiếp đàm phán)  và 1 thư ký người quan sát, ghi nhận và tổng hợp thông tin.
Việc đàm phán dựa trên nguyên tắc thỏa thuận tình cảm, không cứng nhắc. Mở lối cho cả hai bên về những hợp đồng trong tương lai.



VI) Một số chuẩn bị khác
Ngoài ra chúng ta cũng nên chú ý tới việc chuẩn bị một số các công việc khác như: địa điểm đàm phán, vị trí trên bàn đàm phán, phong cách đàm phán và các tài liệu cần thiết…
Trong thời gian đàm phán chú ý đến phong cách dễ gần, cầu thị và hợp tác. Tránh sang trong và cứng nhắc.
Bên cạnh đó bên B cũng cần chú ý các giấy tờ , hành lang pháp lý đối với sản phẩm đang đàm phán của bên A. Tránh những rủi ro và phát sinh về trách nhiệm luật phát trong tương lai.
VII) Kết luận :
Kỹ năng đàm phán là sự tổng hòa của kỹ năng nhân sự và kỹ năng tư duy. Để đàm phán thành công cần có các kiến thức cơ bản về giao tiếp, am hiểu về tâm lý học, và nhiều lĩnh vực khác. Ngoài ra, đàm phán cũng cần đến kinh nghiệm. Người đàm phán giỏi như chú tắc kè hoa, luôn biết biến mình để phù hợp với môi trường xung quanh. Người đàm phán phải cứng như đá và mềm như ngọn cỏ. Vì vậy các nhà quản trị phải tích lũy dần kiến thức và kinh nghiệm, nắm được những nguyên tắc cơ bản để có thể trở thành nhà đàm phán giỏi và chuyên nghiệp. Việc chuẩn bị giai đoạn trước đàm phán có tinh chất quyết đinh 50% vào thành công của việc đàm phán.
Cổ nhân có câu Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng. Còn trong đàm phán“biết địch biết ta trăm trận không thua là thành công”




4.12.12

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Phanblogs BÀI TẬP KỸ NĂNG 2 MÔN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG – LAW101


I. ĐỀ BÀI
Câu 1 (6 điểm): Hãy phân tích các nội dung sau đây:
a)Nguồn gốc hình thành pháp luật.
Cùng với sự hình thành nhà nước, pháp luật cũng được hình thành và nhà nước sử dụng nó như là một công cụ để quản lý xã hội, bảo vệ địa vị và quyền lợi cho giai cấp thống trị trong xã hội. Trong xã hội nguyên thuỷ, khi chưa có nhà nước và pháp luật, quan hệ giữa các thành viên trong xã hội được điều chỉnh bằng các phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo. Các phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo được lấy làm chuẩn mực, những khuôn mẫu ứng xử chung để tạo cho xã hội có được một trật tự, ổn định. Việc thực hiện theo những khuôn mẫu ứng xử chung ấy được mọi người trong xã hội tự giác thực hiện, không có sự cưỡng chế bằng bộ máy bạo lực chuyên nghiệp. Những hành vi vi phạm các quy tắc chung trong một số trường hợp cũng bị cưỡng chế, nhưng không phải là một bộ máy chuyên nghiệp mà là sự cưỡng chế của tập thể xã hội, của cộng đồng với người vi phạm để duy trì và bảo vệ trật tự chung trong xã hội.Khi xã hội đã có sự phân hoá thành các giai tầng khác nhau và nhà nước xuất hiện, các phong tục, tập quán,tín điều tôn giáo mang tính chất bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội không còn phù hợp với việc bảo vệ địa vị, quyền lợi của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị đã thông qua Nhà nước cho phép giữ lại và tiếp tục áp dụng một số các quy tắc được lấy từ phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo. Như vậy, hệ thống các quy tắc hình thành trên cơ sở kế thừa cũng như tạo ra mới, được nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập một trật tự, ổn định của xã hội. Hệ thống các quy tắc đó được gọi là pháp luật.

b) Khái niệm pháp luật.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu cầu tồn tại của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển xã hội.
c) Các đặc điểm chung của pháp luật.
• Tính giai cấp của pháp luật. Pháp luật chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Đồng thời pháp luật luôn thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được giai cấp thống trị sử dụng như một trong những công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp mình.
• Tính xã hội của pháp luật. Pháp luật ngoài mục đích bảo vệ cho địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, còn được sử dụng như một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, thiết lập trật tự, ổn định của xã hội. Đồng thời, pháp luật cũng còn phải bảo vệ những lợi ích chung của cả dân tộc, những lợi ích chung của toàn xã hội.
• Tính quy phạm của pháp luật. Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự. Mỗi quy tắc xử sự tạo nên khuôn mẫu, chuẩn mực cho các hành vi xử sự của con người đối với nhau. Trong các mối quan hệ xã hội, con người căn cứ vào các khuôn mẫu, chuẩn mực đó để có những hành vi xử sự phù hợp với ý chí của nhà nước. Nếu thực hiện không đúng những khuôn mẫu, chuẩn mực đặt ra trong các quy phạm pháp luật, hành vi đó sẽ bị quy kết là trái pháp luật và có khả năng phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi.
• Tính nhà nước của pháp luật. Về bản chất, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Nhưng bản thân ý chí của giai cấp thống trị lại chưa trực tiếp trở thành pháp luật. Muốn có pháp luật giai cấp thống trị phải có các phương cách thích hợp biến ý chí của mình thành ý chí nhà nước. Trên cơ sở đó nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn của mình thể hiện ý chí đó thành pháp luật dưới những hình thức cụ thể thích hợp. Pháp luật phải do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thuộc bộ máy nhà nước xây dựng, ban hành bằng các văn bản của nhà nước, mang dấu ấn của nhà nước. Pháp luật là công cụ riêng có của nhà nước và chỉ có nhà nước mới được đặt ra pháp luật. Đây cũng là đặc điểm phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Nhà nước không những đặt ra pháp luật mà còn là người tổ chức thực hiện pháp luật, người bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trong thực tế đời sống bằng quyền lực vốn có của mình. Việc đảm bảo của nhà nước đối với pháp luật được thực hiện thông qua việc áp dụng các biện pháp về kinh tế, tư tưởng, tổ chức... và tất nhiên cả các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết. Tính bắt buộc, tính cưỡng chế của pháp luật cũng khác với các quy phạm xã hội khác là ở chỗ đó là sự cưỡng chế mang tính nhà nước, nhân danh nhà nước để tiến hành và bằng quyền lực nhà nước.
Tài liệu tham khảo : Khoa Luật, Đại học Kinh tế quốc dân, 2012. Giáo trình Pháp luật đại cương. Tái bản lần thứ 5, NXB Đại học Kinh tế quốc dân

d) Những điểm giống nhau và khác nhau cơ bản giữa pháp luật với Điều lệ của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.



Tính giai cấp

• Tính giai cấp của pháp luật. Pháp luật chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Đồng thời pháp luật luôn thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được giai cấp thống trị sử dụng như một trong những công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp mình.
Khác: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không có tính giai cấp.
Khác:Không phải là công cụ bảo vệ địa vị và lợi ích của Đoàn

Tính xã hội

• Tính xã hội của pháp luật được sử dụng như một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, thiết lập trật tự, ổn định của xã hội. Đồng thời, pháp luật cũng còn phải bảo vệ những lợi ích chung của cả dân tộc, những lợi ích chung của toàn xã hội
Giống: Là công cụ hữu hiệu để quản lý Đoàn, thiết lập trật tự, ổn định của Đoàn
Khác : Không bảo vệ những lợi ích chung của cả dân tộc, Không bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội

Tính quy phạm

• Tính quy phạm của pháp luật. Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự. Mỗi quy tắc xử sự tạo nên khuôn mẫu, chuẩn mực cho các hành vi xử sự của con người đối với nhau. Trong các mối quan hệ xã hội, con người căn cứ vào các khuôn mẫu, chuẩn mực đó để có những hành vi xử sự phù hợp với ý chí của nhà nước. Nếu thực hiện không đúng những khuôn mẫu, chuẩn mực đặt ra trong các quy phạm pháp luật, hành vi đó sẽ bị quy kết là trái pháp luật và có khả năng phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. biện pháp cưỡng chế khi cần thiết. Tính bắt buộc, tính cưỡng chế của pháp luật cũng khác với các quy phạm xã hội khác là ở chỗ đó là sự cưỡng chế mang tính nhà nước, nhân danh nhà nước để tiến hành và bằng quyền lực nhà nước.
Giống : là hệ thống những quy tắc xử sự. Mỗi quy tắc xử sự tạo nên khuôn mẫu chuẩn mực để có những hành vi xử sự phù hợp
Khác : sự cưỡng chế khi vi phạm điều lệ Đoàn không mang tính nhà nước, không nhân danh nhà nước để tiến hành và không bằng quyền lực nhà nước.Không phải gánh chịu hậu quả pháp lý


Tính nhà nước

• Tính nhà nước của pháp luật. Pháp luật phải do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thuộc bộ máy nhà nước xây dựng, ban hành bằng các văn bản của nhà nước, mang dấu ấn của nhà nước. Pháp luật là công cụ riêng có của nhà nước và chỉ có nhà nước mới được đặt ra pháp luật. Đây cũng là đặc điểm phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Nhà nước không những đặt ra pháp luật mà còn là người tổ chức thực hiện pháp luật, người bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trong thực tế đời sống bằng quyền lực vốn có của mình.
Khác: Điều lệ đoàn không mang tính nhà nước , chịu sự quản lý và phù hợp với pháp luật
Phạm vi áp dụng : Mọi cán bộ, đoàn viên và tổ chức Đoàn
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.



Tài liệu tham khảo : Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (Đại hội Đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ VIII thông qua ngày 8/12/2002)

Câu 2 (2 điểm): Nhận định sau là đúng hay sai ? Vì sao?

"Một cá nhân phải đáp ứng đủ các điều kiện nhất định mới có tư cách pháp nhân".
a. Tư cách thể nhân là tư cách pháp lý được Nhà nước công nhận cho một cá nhân (con người bằng xương, bằng thịt). Người này được gọi là thể nhân. Mỗi cá nhân đang hiện hữu trong xã hội đều được Nhà nước công nhận tư cách thể nhân, bất kể họ đã trưởng thành hay chưa, có nhận thức được hoặc phát triển có bình thường hay không. Điều này nhằm ràng buộc mọi con người sống trong cộng đồng phải hành xử trong khuôn khổ pháp luật, không được “sống ngoài vòng pháp luật” để có thể thực hiện những hành vi nguy hiểm, xâm hại người khác, phá vỡ trật tự chung nhưng lại lẩn tránh sự trừng phạt của Nhà nước. Thể nhân không nhất thiết phải có đầy đủ cả năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhưng không ai là không có năng lực pháp luật: “ Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết” (Điều 16 Bộ luật dân sự năm 1995).
- Nếu chỉ có năng lực pháp luật, thể nhân chỉ tham gia quan hệ pháp luật một cách gián tiếp, nghĩa là phải thông qua người đại diện trước pháp luật ( thí dụ: giám hộ của người bị bệnh tâm thần nhưng có tài sản được hưởng thừa kế, có quyền nhân danh người này để góp vốn vào công ty nhằm phục vụ lợi ích cho người bị bệnh). Khi ấy, thể nhân không có tư cách pháp lý độc lập vì không thể tự mình quyết định hành xử quyền của chính mình, cũng không chịu trách nhiệm pháp lý nếu gây tổn hại cho người khác (thí dụ người tâm thần đốt nhà, hủy hoại tài sản của người khác thì giám hộ của người này phải bồi thường thay).
- Nếu có cả năng lực pháp luật lẫn năng lực hành vi, thể nhân có quyền tham gia quan hệ pháp luật một cách trực tiếp, tự mình quyết định và trực tiếp hành xử các quyền luật định, cũng như hoàn toàn có khả năng gánh vác mọi hậu quả pháp lý bất lợi (bị xử phạt)khi vi phạm pháp luật mà không có ai phải chịu trách nhiệm thay. Nguyên tắc chung là người thành niên (đã đủ 18 tuổi), có nhận thức bình thường và không mắc khuyết tật nghiêm trọng về thể chất như mù loà, câm điếc, liệt chi…đều là thể nhân có tư cách pháp lý độc lập.



b. Tư cách pháp nhân là tư cách pháp lý được Nhà nước công nhận cho một tổ chức (nhóm người) có khả tồn tại và hoạt động độc lập trước pháp luật. Tổ chức này được gọi là pháp nhân (là con người trên phương diện pháp lý chứ không phải con người thực thể). Khác với thể nhân, không phải tổ chức nào, tập thể nào cũng đều được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân. Theo điều 94 BLDS năm 1995, một tổ chức muốn được công nhận tư cách pháp nhân phải hội đủ các điều kiện cơ bản sau:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ xã hội một cách độc lập.
Một pháp nhân luôn luôn đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Ngoài thể nhân, pháp nhân, những tổ chức không đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên cũng có thể được Nhà nước công nhận tư cách pháp lý nhưng không tồn tại độc lập trước pháp luật, mà phía sau nó luôn có một hoặc một số chủ thể độc lập khác điều khiển và chịu trách nhiệm về hoạt động của nó.
Cá nhân không phải là tổ chức. Vì thế, nhận định "cá nhân phải có đủ các điều kiện nhất định mới có tư cách pháp nhân" là một nhận định SAI. Cá nhân chỉ có thể có tư cách thể nhân.
Tài liệu tham khảo : Bộ luận Dân sự năm 2005

Câu 3 (2 điểm): Nhận định sau là đúng hay sai ? Vì sao?

"Cá nhân có hành vi vi phạm hành chính phải gánh chịu hình phạt".
Vi phạm hành chính là hành vi của cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới các quy tắc quản lý của nhà nước, nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một hành vi bị coi là vi phạm hành chính khi có đầy đủ các dấu hiệu sau:


• Thứ nhất, vi phạm hành chính phải là hành vi xác định của con người.
• Thứ hai, hành vi ấy trái với quy tắc quản lý của Nhà nước. Nhưng tính chất, mức độ, hậu quả chưa nghiêm trọng, chưa đến mức bị coi là vi phạm hình sự (tội phạm). Có những hành vi làm trái với quy tắc quản lý của nhà nước nhưng tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi đó nghiêm trọng có thể bị quy kết là vi phạm hình sự và bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
• Thứ ba, chủ thể thực hiện hành vi phải là các tổ chức, cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính. Đối với cá nhân, năng lực trách nhiệm hành chính là khả năng cá nhân đó phải gánh chịu trách nhiệm hành chính phụ thuộc vào độ tuổi và điều kiện về thần kinh. Người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hành chính. Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính ở mức cảnh cáo khi thực hiện hành vi vi phạm do lỗi cố ý, nếu thực hiện hành vi do lỗi vô ý thì không phải chịu trách nhiệm hành chính. Người từ đủ 16 tuổi trở lên, nếu có hành vi vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm hành chính. Người bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các chứng bệnh khác dẫn đến không thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình cũng không phải chịu trách nhiệm hành chính.
• Thứ tư, người thực hiện hành vi trái pháp luật phải có lỗi khi thực hiện hành vi đó. Nếu không có lỗi, người thực hiện hành vi dù trái pháp luật cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.
Tổng hợp lại 4 yếu tố trên ta thấy nhận định "Cá nhân có hành vi vi phạm hành chính phải gánh chịu hình phạt". là một nhận định SAI. Vì nó có thể chưa thỏa mãn các yếu tố trên.
Tài Liệu Tham khảo : Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

18.11.12

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


BÀI TẬP KỸ NĂNG 1

MÔN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG – LAW101



Câu 1 (6 điểm): Hãy phân tích các nội dung sau đây:
a) Vị trí, chức năng của Chính phủ
b) Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ
c) Mối quan hệ pháp lý giữa Chính phủ với Quốc hội
d) Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành.
Bài làm:
a) Vị trí, chức năng của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.





b) Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ

Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ.
Phiên họp của Chính phủ chỉ được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Chính phủ tham dự.
Trong các phiên họp thảo luận các vấn đề quan trọng được quy định tại Điều 19 của Luật này, các quyết định của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành.
Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết.




Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.

c) Mối quan hệ pháp lý giữa Chính phủ với Quốc hội
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.
Hàng quý, sáu tháng, Chính phủ gửi báo cáo công tác của Chính phủ đến Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tại kỳ họp giữa năm của Quốc hội, Chính phủ gửi báo cáo công tác đến các đại biểu Quốc hội. Trong kỳ họp cuối năm của Quốc hội, Chính phủ báo cáo trước Quốc hội về công tác của Chính phủ.
Khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội yêu cầu thì các thành viên của Chính phủ có trách nhiệm đến trình bày hoặc cung cấp các tài liệu cần thiết.
Thủ tướng Chính phủ hoặc thành viên của Chính phủ có trách nhiệm trả lời các kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị.
Thủ tướng Chính phủ hoặc thành viên của Chính phủ có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội.
Kinh phí hoạt động của Chính phủ do Quốc hội quyết định từ ngân sách nhà nước.

d) Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành:
Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên;
Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
Trình các dự án luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chương trình của Chính phủ về xây dựng luật, pháp lệnh với Uỷ ban thường vụ Quốc hội; ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp;
Thủ tướng Chính phủ ký các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.
Các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước.
Nguồn tham khảo :
[1]. Khoa Luật, Đại học Kinh tế quốc dân. 2012. Giáo trình Pháp luật đại cương. Tái bản lần thứ 3, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
 [2]. Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
 [3]. Luật tổ chức Quốc hội 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007
 [4]. Luật tổ chức Chính phủ 2001

Câu 2 (2 điểm): Nhận định sau đây là đúng hay sai ? Vì sao?
"Bộ Kế hoạch và Đầu tư không phải là cơ quan thuộc Chính phủ".
Bài làm:
Nhận định trên là ĐÚNG vì :
·        Bộ kế hoạch đầu tư là 1 bộ thuộc danh sách 18 các bộ ngành trung ương hiện có tại Việt Nam.
·        Bộ Kế hoạch và Đầu tư được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1995, theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư.
·        Theo điều 110 hiến pháp 1992  « Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác «   vì vậy mặc nhiên Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải là cơ quan của Chính phủ.
·        Điều 2 Nghị định số 36/2012/NĐ-CP của Chính phủ Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực.
·        Điều 22 Luật Tổ chức Chính phủ: Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật."
·        Bộ do Quốc Hội quyết định thành lập, bãi bỏ theo quy định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 (khoản 8) và Điều 2 Luật Tổ chức Chính phủ
·        Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm: các Bộ và cơ quan ngang bộ (Điều 2 Luật Tổ chức Chính phủ)
·        Còn cơ quan thuộc Chính phủ do Chính phủ thành lập theo quy định tại khoản 7 Điều 19 Luật tổ chức Chính phủ
Vậy nói : "Bộ Kế hoạch và Đầu tư không phải là cơ quan thuộc Chính phủ". Là ĐÚNG.





Câu 3 (2 điểm): Nhận định sau đây là đúng hay sai ? Vì sao?
"Mọi hành vi trái pháp luật đều phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý".
Bài làm :
Ý kiến trên là SAI
Chúng ta cần phân biệt rõ giữa hành vi vi phạm pháp luậthành vi trái pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật. Như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, quá phạm vi cho phép của pháp luật
Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên trên thực tế, nếu có hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện mà không biết ai là người đã thực hiện thì không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý. Hoặc khi cơ quan nhà nước biết về hành vi vi phạm pháp luật thì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý thì người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không phải chịu trách nhiệm pháp lý nữa
• Vi phạm pháp luật phải là hành vi do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Trong pháp luật, sự độc lập gánh chịu trách nhiệm pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự và có sự tự do ý chí, tức là người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình. Vì vậy, những hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng do những người không có năng lực hành vi, người mất năng lực hành vi thực hiện thì vẫn không bị coi là vi phạm pháp luật.
• Vi phạm pháp luật là những hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của họ là biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý đó có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan mà chủ thể hành vi đó không thể ý thức hoặc lường trước được thì họ không thể bị coi là có lỗi, và do đó không thể bị coi là vi phạm pháp luật.Có những trường hợp có vi phạm pháp luật nhưng chủ thể không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Đó là những trường hợp chủ thể không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình như: mắc bệnh tâm thần ; chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự...Nhưng trên phương diện lý luận, thì đã có vi phạm pháp luật thì phát sinh trách nhiệm pháp lý. Còn thực tế chịu trách nhiệm hay thực hiện trách nhiệm hay không thì tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà pháp luật sẽ có những chế tài cụ thể.
Vậy có thể nói : hành vi vi phạm pháp luật bao gồm hành vi trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm pháp lý. Nhưng không thể nói ngược lại.
Vì vậy nhận định "Mọi hành vi trái pháp luật đều phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý". Là SAI