Search

6.1.22

THÍCH ĐÁNH BÀI THÌ PHẢI KIẾM MẤY THẰNG XĂM MÌNH

ĐỜI CÓ TÊN TỤI MÌNH


1. Ở Trung Quốc, 5 tỉnh có kinh tế mạnh nhất: Quảng Đông, Giang Tô, Sơn Đông, Phúc Kiến, Triết Giang đều có đặc điểm chung là ven biển. Tương tự là Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cần để giao thương. Việc nằm sâu trong lục địa như Lào, Mông Cổ...luôn gặp những bất lợi vì ngoại thương phần lớn thông qua các cảng biển. Tuy nhiên, những nước có biển như Philippines, Indonesia, Papua New Guinea, Srilanka...thì nền kinh tế và ngoại thương không khá mấy. GDP của cả đất nước Phillipines chỉ bằng 1/4 tỉnh Quảng Đông dù dân số ở mức tương đương (trên 100 triệu). Nền ngoại thương nói riêng và kinh tế nói chung của các nước này lại chủ yếu cũng nằm trong tay các doanh nhân Hoa Kiều, cũng nguồn gốc Quảng Đông, Phúc Kiến...Như vậy, điều kiện đủ và cốt lõi để kinh tế phát triển chính là con người, mà ở đây văn hoá đóng vai trò quyết định. Sống chung với người có óc làm ăn, óc làm chủ, ưa mạo hiểm, dám chịu rủi ro, lo cho người khác...thì mình sẽ bị "lây nhiễm", rồi giàu có phồn vinh lúc nào hẻm hay, tiền của bỗng dưng ập đến trở tay không kịp.
Còn nếu ai xui xẻo mà phải sống chung hoặc kết bạn với người ham bằng cấp, ham ổn định, nghĩ hẹp, chắc ăn, thích xin việc, phụ thuộc người khác...thì mình cũng sẽ bị tư duy như thế.

Người ta thống kê 100 doanh nhân lớn nhất của châu Á và rút ra những tính cách chung. Đầu tiên là có gene "con nhà nòi". Ông tổ có cửa hiệu ở Quảng Châu thì sau này con cháu dù có dong thuyền phiêu bạt sang Manila, dù hai bàn tay trắng cũng sẽ gây dựng lại được cơ nghiệp.
Số người không có tố chất để làm chủ, thì phải tự nhận thức và thay đổi. Nói dễ thì không dễ, mà khó cũng không khó. Vì nó liên quan đến một chữ duy nhất: DÁM.

THÍCH ĐÁNH BÀI THÌ PHẢI KIẾM MẤY THẰNG XĂM MÌNH



2. Con đường tơ lụa từ Đông sang Tây, bắt nguồn từ Hàng Châu quê lụa, lên Tây An rồi qua các nước Trung Á, Ả Rập, sang châu Âu là do các thương nhân ngày xưa tạo ra. Con đường này dài hàng ngàn dặm, qua núi cao, qua sa mạc, qua sông sâu, qua nhiều quốc gia với văn hoá, tôn giáo. Người bỏ mạng lại trên đường thiên lý cũng nhiều. Nhưng nó làm giàu cho những người DÁM đi trên con đường ấy.
Về mặt địa lý, nước Úc nằm gần châu Á, cạnh sát Indonesia và hai nền văn hoá lớn Trung Quốc, Ấn Độ. Nhưng lại được các nhà thám hiểm người Hà Lan, Anh, Bồ,...cách đó xa xôi vạn dặm tìm ra, vẽ bản đồ, xác lập chủ quyền, xây dựng thành vùng đất trù phú. Bây giờ người Trung, người Ấn mua qua phải xếp hàng phỏng vấn xin visa, còn người Indonesia thì lâu lâu lại vượt biên sang và bỏ mạng trên những con sóng dữ. Sinh viên Ấn, Trung ở Úc, tới năm cuối là dáo dác làm hôn nhân giả để ở lại. Họ luôn tiếc nuối, giá như ngày xưa cha ông họ DÁM...bước sang (Cũng có nhiều người châu Á sang Úc trước người Âu nhưng chủ yếu là người đánh cá, hẻm phải tinh hoa, nên thấy vậy thôi chứ không biết phải làm gì tiếp theo. Giống như Đà Lạt, không phải bác sĩ Yersin là người đặt chân đến đầu tiên. Nhưng ông là tinh hoa, nhận thấy đây là vùng đất đặc biệt, mới thành lập thành phố, còn trước đó, bao nhiêu người Việt tới và nói giữa mấy dãy núi trên kia có một cao nguyên toàn thông, lạnh ngắt, teo hết, đến khi người ta xây xong thành phố thì mới lục tục kéo lên. Nên "tinh hoa" nó khác "đại trà" ở chỗ, họ sẽ tạo "không" thành "có", hoang vu thành trù phú, nghèo khó thành phồn vinh).
Người phương Tây ngày xưa với cánh buồm thô sơ, với chiếc la bàn cũng thô sơ…đi dọc ngang trên quả đất, tìm vùng đất này, đất kia, mua bán cái này cái kia với mọi dân tộc, dù rất nhiều con tàu đã một đi không trở lại do bão tố trên biển lúc đó không thể dự đoán được. Ngoại ngữ thời đó vừa làm vừa ghi chép lại, nhưng người ta vẫn giao thương được. Hội An ghi dấu đội thương thuyền người Hoa, người Anh, người Hà Lan, người Pháp, người Nhật, người Ấn Độ, người Ả Rập...nhưng lịch sử thế giới không ghi nhận bất kỳ đội thương thuyền người Việt nào ghé cảng Osaka, Singapore. Người Việt với văn hoá lúa nước, múa hát ngâm thơ hò đối đáp trong làng trong xã, ao cá và bờ tre, thửa ruộng nhỏ mỗi hộ vài sào...nên tư duy chật chội, truyền đời này sang đời khác, phố hay làng đều chật.


3. Thích phán xét người khác và sợ bị phán xét, nên nhìn chung người châu Á ứng xử theo đám đông, duy tính duy tình, không thích duy lý, không thích sự rõ ràng. Các thế hệ người châu Á không dám đi đâu xa, cứ quẩn quanh trong làng, ngâm thơ múa hát, và đã trả giá khi tất cả đều thành thuộc địa hay bị ảnh hưởng bởi phương Tây trong thế kỷ 18-19, trừ Nhật và Thái. Suy nghĩ bùng nhùng, văn hoá gia tộc của người châu Á chính là cản trở lớn nhất của châu lục này phát triển trong các thế kỷ. Nhận ra vấn đề này, Fukuzawa, một trí thức Nhật bản dưới thời Minh Trị đã tìm ra thuyết “Thoát Á Luận” tức lý luận thoát ra tư duy châu Á, cụ thể là từ bỏ lối nho học khiến tư duy rập khuôn, sáo mòn. Họ cũng xem nho giáo chỉ là lịch sử chứ không còn là quốc đạo. Nho giáo với các ràng buộc con người chằng chịt khiến từ lúc sinh ra đến mất đi, một cá thể độc lập không dám sống cho bản thân mình, các chữ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu, trung...được khai thác theo hướng phục vụ cho việc mở rộng lãnh thổ của các hoàng đế. Các hoàng đế này đặt hàng cho các triết gia viết ra, gọi là sách "thánh hiền", được xã hội mặc định là đúng đắn, là truyền thống gìn giữ cho bằng được. Ông Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử gì đó cũng chỉ là một cá nhân, sống trong một thời đại với nền nông nghiệp lua hâu (lua hâu là lạc hậu, tới đoạn này tự nhiên chêm tiếng Hoa, mệt ông Tony quá à), thời con trâu và cái cày...thì quan niệm của họ chỉ nên tham khảo, chắc gì đã đúng ở thời của họ huống hồ gì đến cả ngàn năm sau. Từ đó, người Nhật thoát Á nhẹ nhàng. Người Hàn hay Trung, sau này dù không bỏ âm lịch tuy nhiên xã hội từ từ lãng quên. Người Hàn chỉ xem 3 ngày đầu năm âm lịch là 3 ngày nghỉ, còn người Hoa, với giới chủ và nhà giàu, họ xem tết âm lịch (người Phương Tây gọi là Chinese new year) là dịp để đi du lịch nước ngoài. Kinh tế càng gắn chặt với kinh tế thế giới, áp lực làm việc của mỗi cá nhân....sẽ khiến lịch âm tự động sẽ biến mất khỏi bộ nhớ của giới trẻ. Âm lịch, tức nông lịch, lịch theo chu kỳ mặt trăng quay quanh quả đất, mùng 1 là trời tối nhất, rằm là trăng sáng nhất, sức hút mặt trăng sẽ tạo ra nước thuỷ triều lớn ròng cho việc trồng trọt. Âm lịch chỉ phù hợp với nền nông nghiệp cổ xưa lạc hậu, phụ thuộc hoàn toàn vô thiên nhiên, từ đó mà văn hoá cúng kiếng, cầu xin mới ra đời. Làm nông toàn là "trông trời trông đất trong mây, trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm", lập đàn cầu mưa cầu nắng. Âm lịch không chuẩn nên vài năm là bù vô cả tháng, gọi là tháng nhuận.
Còn dương lịch, tính theo chu kỳ trái đất quay quanh mặt trời, chính xác hơn, chỉ 4 năm sai số 1 ngày, bù vào tháng 2 (29/2). Dương lịch là cơ sở của mọi thành tựu khoa học kỹ thuật của người phương Tây. Muốn trời mưa thì cho máy bay rải i ốt bạc lên mây chứ thắp hương lạy xin ông Long Vương ắt xì chi cho mệt.


4. Thế kỷ 19. Khi văn minh Phương Tây tràn đến không có gì có thể chống lại được vì họ hơn châu Á về mọi mặt, người Nhật nhận ra cái duy nhất người Phương Tây cần là lợi ích kinh tế, nên họ mở cửa cho vào. Người Thái cũng bắt chước người Nhật. Hai vị vua trạc tuổi nhau lúc đó là Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật, Chulalongkorn của Thái Lan đã giữ vững được độc lập, ở châu Á, duy chỉ 2 quốc gia này hem là thuộc địa của ai. Lúc đó vua Tự Đức (cùng thời với anh Minh Trị và anh Chula dù lớn tuổi hơn một tí), khi nghe Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858, cứ hỏi "bây chừ thì ta phải làm răng". Các nước anh cả trong vùng từ Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia,...cũng không thoát khỏi ách thuộc địa vì cứ "làm răng". Dầu sôi lửa bỏng mà còn đòi đi... nha sĩ.


5. Ngày xưa khó khăn như thế, người ta còn Dám đi, dám làm để phồn vinh giàu có. Giờ đây, có một số bạn trẻ, ngay cả leo lên máy bay cũng không dám. Internet, ngoại ngữ, định vị vệ tinh...khiến mọi thứ thuận lợi dễ dàng, vậy mà không dám bước ra thế giới bên ngoài, dù để đi du lịch. Muốn học gì, khởi nghiệp làm gì, hay đi đâu,...cũng phải xin ý kiến cha mẹ/gia tộc dù đã hơn 18 tuổi. Chưa ông tỷ phú hay giám đốc nào xin phép cha mẹ cho con đi tỉnh xa làm ăn, bà mẹ nói không được, cái nói dạ. Rồi ngồi khóc. Tụt mood chán nản buồn rầu. Đông Tây kim cổ chưa hề có thể loại người tinh hoa hay tài năng nào như thế.
Độc lập tư duy, thoát khỏi suy nghĩ đám đông thì mới có tự do cá nhân. DÁM là tố chất đầu tiên của những người muốn làm chủ cuộc đời.
Nếu các bạn trẻ xin chữ đầu năm, thì Tony cho các bạn chữ Dám treo lên tường FB của mình. Nếu làm kinh tế, dám đi đến những nơi xa xôi khai phá, dám tự mình trả lương cho mình, tiến tới trả lương cho người khác, đàn ông con trai lại càng phải chịu gian khó, dám đi xa thành phố, rời xa dĩa xoài xanh muối ớt máy lạnh văn phòng để tạo cơ nghiệp.


6. Làm ngành nghề gì cũng phải có thành tựu. Để đời có tên tụi mình.


Nguồn: Tony Buổi Sáng
#vietnambusinessinsider



Thống kê bài đọc nhiều theo thời gian

31.12.21

NGÀY CUỐI NĂM CỦA NGƯỜI NÀY LÀ NGÀY CUỐI ĐỜI CỦA NGƯỜI KHÁC

TẬP KHAM NHẪN ĐỂ CHẾT LÀNH


Kinh văn: “Có năm nguy hại này cho người không kham nhẫn. Thế nào là năm? Quần chúng không ái mộ, không ưa thích; nhiều người hận thù; nhiều người tránh né; khi mạng chung, tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung; sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.”
====
 
‘Khanti’: nhẫn nại
‘Akkhanti’: không kham nhẫn.  
Từ ngữ căn Pāḷi ‘kham’, (hay ở chỗ là tiếng Hán cũng là ‘kham’), động từ là ‘khamati’ (nhẫn nại, nhẫn chịu); danh từ là ‘khānti’ (sự nhẫn nại) 
Nhẫn gồm 2: ngoại nhẫn và nội nhẫn
-Nội nhẫn: khả năng kiềm chế được  tâm trạng, cảm xúc
-Ngoại nhẫn: khả năng chịu đựng bất toại, nghịch ý từ bên ngoài (bên ngoài cái tâm) như đau đớn, bênh hoạn, nóng lạnh, khát, bị côn trùng chích đốt, bị đánh bị chửi, bị tiếng đời....
====

31-12-2021. NGÀY CUỐI NĂM CỦA NGƯỜI NÀY LÀ NGÀY CUỐI ĐỜI CỦA NGƯỜI KHÁC.


Người không có khả năng nội nhẫn và ngoại nhẫn thì sớm muộn gì cũng mắc vào 5 lỗi này: mất lòng đại chúng, nhiều kẻ thù, khó bè bạn, mạng chung tâm mê loạn, chết rồi bị đọa.
Lúc bình sinh còn khỏe mạnh, mình nằm trên giường nghe ngứa, mình thò tay gãi, chuyện đơn giản. Nghe cái tay tê, mình bật dậy chà chà vuốt vuốt, co duỗi một lát hết tê. Nằm một hồi thấy không được thoải mái, mình ngồi dậy. Ngồi không thoải mái thì mình đứng lên đi. Nhưng sẽ có một ngày mình nằm trên giường bệnh, ngứa mà gãi không được, tê mỏi mà không biết phải làm sao, khát nước không biết kêu ai, muốn tiêu muốn tiểu mà không biết phải làm gì, và khi mất kiểm soát luôn thì không biết phải làm sao. Lúc đó, nếu chúng ta là người tu hành -- dầu tăng ni hay Phật tử -- chỗ nương dựa duy nhất của mình chỉ còn là cái pháp nhẫn mà thôi. 
Ngày kia, một phóng viên người Mỹ, thấy có anh chàng kia bị tàn tật cụt hai tay, nhảy cà tưng cà tưng trước một cái quán bên đường đang phát nhạc. Anh phóng viên ngạc nhiên:
- Anh tàn tật mà yêu đời quá vậy?
-Ngứa mà gãi không được đó cha!
Ngẫu nhiên là quán bên đường đang mở nhạc, mà anh ta thì nhảy nhót không phải do nghe nhạc. Ngứa quá không biết làm sao nên anh ta cứ xoay mình lắc vai cho đỡ ngứa. 
Đây không phải là câu chuyện để cho quí vị cười, mà là chuyện để cho tôi run. Tôi nghĩ đến một ngày tôi nằm trên giường mà gãi không được quý vị biết không; hoặc có một ngày đau quá mà mình chịu không được, bởi bình thường mình đâu có tu, bình thường mình đâu có học giáo lý. 
Cho tôi gởi lời tạ tội với những vị đã đi tuyên bố thế này: “Không cần học giáo lý, tôi chỉ việc giữ tâm thanh thản.” Nói thì nghe sướng lắm, nhưng xin thưa, đó là cảnh giới của thánh nhân, chứ phàm phu thì phải học giáo lý, nếu không thì cái đầu mình toàn rác không à. Quí vị có là người thân thiết thiết thân của tôi thì tôi cũng chỉ nói chừng đó thôi, phải học giáo lý rồi sống chánh niệm. Đó là con đường duy nhất để mà sống, sống-chuẩn-bị-chết, sống chờ chết chỉ có một cách đó thôi. Như vậy thì mình mới có khả năng nội nhẫn và ngoại nhẫn. Ớn nhứt là sẽ có một ngày mình nói không được, phương tiện giao tiếp duy nhất chỉ còn là ánh mắt thôi. Mình có nuôi bệnh ai đó thì phải thống nhất những giao kèo: khi nào yes (đồng ý) thì nháy hai cái, no (không thích) là nháy một cái chẳng hạn. Sẽ có một ngày cả người bệnh và người nuôi bệnh không còn hiểu nhau nữa. 
Cho nên, đó là lý do vì sao trong bài kinh này nói người không có khả năng kham nhẫn thì chết dễ bị mê loạn, chết dễ bị đọa. Bởi vì lúc đó mình sẽ bực dọc dữ lắm, mình sẽ hờn giận tức tối. Nhất là những người có của có tiền, hồi nào còn sống làm trâu làm ngựa để của nả cho vợ, cho chồng, cho con cái; tới hồi mình nằm ngáp ngáp thì tụi nó dắt nhau đi ăn nhậu cho sướng cái đời tụi nó, để mình nằm đó với con nhỏ Osin. Mà con nhỏ Osin với mình cũng là người dưng nước lã, nó gặp chủ thì nó nể, chủ đi vắng rồi, nó đối với người bệnh còn tệ hơn con của nó nữa. Bây giờ thì chúng ta cứ vùi đầu vô đống tiền, không có nghĩ đến những đoạn trường đó. Tôi đã biết nhiều trường hợp khi còn sống không lo học giáo lý, không sống chánh niệm, không trau dồi tư lương chuẩn bị mai này, cứ lo vùi đầu làm nô lệ cho con cháu. Bởi vậy cho nên, ông Thiệu Khang Tiết (Tàu) có câu “Nhi tôn tự hữu nhi tôn phúc, mạc vị nhi tôn tác mã ngưu.” (Cháu con có phúc cháu con, chớ vì con cháu mà làm ngựa trâu). Cả đời không lo cho mình, cứ tưởng đó là trách nhiệm, thật ra đó là vì mình khoái tiền, khoái danh khoái lợi, cứ móc thẻ trách nhiệm gia đình ra. Bạc tóc rồi lo cho cháu, lo cháu gần rồi chuyển qua lo cháu xa. Thật ra, cái gì cũng phải có chừng mực, mình phải lo cho mình nữa chứ. Cuối cùng nằm liệt giường rồi hận. Bậy nhất là nằm hận. Chính mình phải hận mình kìa chứ không hận ai hết, bởi vì mình ngu. Cả đời cứ le lưỡi đếm tiền rồi đem về hầu hạ cho người này kẻ nọ. Lúc trên giường bệnh thì tiêu tiểu tanh hôi, lúc đó mới biết mùi.
Kinh này rất là quan trọng, ngay bây giờ anh phải nhớ là anh đang sống trong cõi Sa-bà. Chữ Sa-bà (Saha) nghĩa là  chịu đựng; Sa-bà là cõi mà ta phải cắn răng mà sống. Ngay bây giờ, dầu còn răng hết răng, hay răng giả cũng phải ráng mà cắn để sống. Khanti (nhẫn) nghĩa là cắn răng, chịu đựng. Không còn răng thì phải cắn cái tâm của mình, để chuẩn bị một ngày mình rất cần khả năng chịu đựng đó. Ghê nhất là khi cận tử, cái tâm nó yếu, nó chập chờn leo lét, giống như người chết đuối hụt hơi kiệt sức bạ đâu chụp đó. Bởi vì lúc đó hấp hối rồi, bạ đâu chụp đó. Có người thì cầm một cơn đau mà ra đi. Có người cầm một nỗi buồn, cầm một cơn giận, một cơn sợ hãi để mà ra đi. Có người cầm một điều tiếc nuối, một nỗi nhớ niềm thương mà đi. Có người cầm niềm vui nỗi buồn mà đi. Có người nhìn ly nước trên bàn mà đi. Có người nhìn chiếc nhẫn trên tay người phối ngẫu mà đi. Có người cầm cơn đau, cơn tức, con ngứa ở răng, ở mông, ở đùi, ở lưng, ở ngực mà đi. 
Quí vị phải nhớ, lo cho con cái cuối cùng là phải lo cho mình. Bởi vì chắc chắn sẽ có ngày mình cầm lấy một món tào lao nào đó mà đi. Có người lúc đó chỉ còn dựa vào hơi thở, hớp hớp như con cá mắc cạn, họ ôm hơi thở tàn mà đi. Nếu mình là hành giả thì êm lắm. Đối với một hành giả theo dõi hơi thở lâu ngày thì họ không phải trải qua cái đau đớn của một người bị ngạt thở sắp chết. Một người bình thường phải cần một lượng đầy đủ oxy để làm tròn một hơi thở vào, nhưng đối với một hành giả tu thiền định lâu năm với đề mục hơi thở thì càng tu hơi thở càng tế, càng mỏng dần. Nhu cầu sinh học về Oxygen sẽ giảm đi. Giảm đến mức mà lúc chứng đến Tứ thiền thì hành giả không cần thở nữa. Tới Tam thiền đã giảm dần, Nhị thiền giảm được một mớ, Sơ thiền là hơi thở tế hơn người bình thường. Khi họ hóa hiện thần thông thì cơ thể của họ không cần oxygen và họ cũng không bị chi phối bởi trọng lực của trái đất. Họ có thể xê dịch ra ngoài khí quyển một cách thong dong tự tại. Nhưng thôi, chuyện trên mây, kể rồi bà con lại cho là phong thần. Tôi trở lại chuyện căn bản. 
Khi quí vị sống chánh niệm trong hơi thở một thời gian thì hơi thở sẽ tế dần, tế đến mức bà con tưởng rằng ta không còn thở nữa. Khi nhu cầu giảm dần thì sẽ có một ngày mình ra đi ngọt lắm. 
Khi mình chưa biết đạo thì mình chỉ biết chạy theo cái gì mình thích, trốn cái gì mình ghét. Khi biết đạo ba mớ rồi thì lánh ác hành thiện. Thấy cái gì thiện thì mừng lắm, còn thấy cái gì ác thì buồn: Lúc này sao tôi sân si quá, lúc này sao tôi thất niệm, tôi không tập trung tư tưởng được…. Biết sơ cơ thì mình theo thiện lánh ác để trốn khổ tìm vui, nhưng đến bước thứ ba thì không còn có ý hành thiện lánh ác nữa mà chỉ quan sát thôi. Tâm bất thiện tới biết rõ, you là bất thiện, tâm thiện tới biết rõ you là tâm thiện. Chỉ còn nhìn thôi, khách nào cũng là khách, da trắng cũng khách da đen cũng khách; thằng Tèo cũng khách, thằng Tý cũng là khách, con Lan con Hương cũng là khách. Nghĩa là tới một ngày hành giả không còn tự mãn với thiện pháp và cũng không còn mặc cảm với ác pháp. Cứ ngồi yên nhìn, không kiếm tìm thiện pháp, không trốn chạy ác pháp. Không kiếm tìm cảm giác dễ chịu, không trốn chạy cảm giác khó chịu. Nó tới là biết, biết đây là khổ, biết đây là lạc, biết đây là thiện, biết đây là ác. Sống như vậy tới ngày chết là ngon lành.
Một hành giả tu Tứ Niệm Xứ đặc biệt đề mục hơi thở cứ làm ơn thở ra trong tỉnh thức, thở vào trong tỉnh thức, đừng có quán chiếu gì hết. Cứ học giáo lý đàng hoàng, biết sắc thọ tưởng hành thức là gì, biết lục căn 12 xứ Bốn Đế là gì. Học giáo lý cho biết xong rồi dẹp sạch, rồi sống chánh niệm, đi thì biết là đi, ngồi biết ngồi… chỉ vậy thôi. Nếu ba-la-mật đủ là bùm – Đắc! Đắc bằng cách nào? Hành giả thấy trong cái đi đó có uẩn, có xứ, có giới, có đế; hành giả biết đây là Tập, biết đây là Vô minh duyên hành, Hành duyên Thức v.v... Hãy yên tâm, phần này ba-la-mật xử giùm cho, không cần phải lo, nhưng phải-học-giáo-lý rồi quên sạch. Hãy nhớ giùm, con đường trên bản đồ không phải là con đường ngoài thực tế, nhưng không thể nào thiếu bản đồ mà đi được. Phải biết luôn rằng con đường mình thấy ở ngoài không phải là con đường trên tấm bản đồ. Con đường trên tấm bản đồ chỉ là một vệt mực trên giấy; con đường bên ngoài có cây đa bến nước con đò, có cô hàng xén, có trời xanh mây trắng nắng vàng, bên anh chít chát bên nàng email… có đủ hết. Con đường trên bản đồ thì chỉ là một vệt mực trên giấy nhưng không có nó thì khó lòng.  Kinh điển cũng y như vậy, kinh điển dạy mình đủ điều hết, nhưng nó chỉ là con đường, vệt mực trên tờ giấy mà thôi. Kết quả thực chứng linh động sống động hơn rất nhiều. Có điều đặc biệt là nó không giống với kinh điển mình đã học, nhưng nó không mâu thuẫn, không chống trái, không đi ngược. Vì vậy mới thú vị. Con đường ngoài đời không đi ngược lại con đường trên bản đồ nhưng không phải là con đường trên tấm bản đồ.  
Phải sống chánh niệm. Có chánh niệm, có kiến thức giáo lý thì khả năng nội nhẫn và ngoại nhẫn của quí vị mới ok được. Còn cứ nghe ai nói với cái giọng hiền thánh rằng, không cần học nhiều, học nhiều thì sở tri chướng, là điên đảo mộng tưởng v.v... rồi không chịu học thì cái đầu bư của mình biết cái gì. Lúc đang trẻ đang khỏe, đang giàu đang đẹp đang ok thì nghe sướng thiệt. Nhưng đến lúc cần thì biết cái gì mà tu. Cho nên phải học giáo lý rồi sống chánh niệm. 
Khả năng kham nhẫn ấy bắt buộc ta phải thực tập ngay bây giờ, tại đây, vì không biết chiều nay có phải là buổi chiều cuối cùng hay không, và khuya nay có phải là những giây khắc mà ta đối diện với cái chết hay không. Bây giờ bà con đang ok, muốn gãi ở đâu thì gãi, muốn vuốt ở đâu thì vuốt. Nhưng khi sắp đi rồi thì giở cái tay không lên, một chút ngứa cũng không giải quyết được. Tay mình chân mình lưng mình bụng mình mà gãi không được, thiếu nhẫn thì làm sao đây. Mỗi người lúc đó sẽ cầm lấy một thứ mà đi, có người khó chịu với cái ngứa, có người ngạt thở, có người với cơn đau, có người với cơn giận, có người với tiếc nuối, sợ hãi, có người với nỗi nhớ niềm thương… Còn với người kham nhẫn thì họ sẽ ra đi với sự tỉnh táo, thanh thản nhẹ nhàng: “Tôi biết rõ anh rồi. Tôi đã biết anh mấy chục năm nay rồi, anh cứ lui tới nhà tôi, anh đứng trước hành lang nhà tôi. Tôi biết rất rõ anh, anh không có lạ gì với tôi, anh không có đáng để tôi sợ, anh không có đáng để tôi ghét, anh không có đáng để tôi tiếc nuối. Anh là tham, anh là sân, anh là si, anh là tâm thiện, anh là tâm lành, anh là những nỗi đau tâm sinh lý…” 
#NKCBK #SưGiácNguyên giảng


Thống kê bài đọc nhiều theo thời gian