Search

16.12.25

CON ĐƯỜNG CỔ XƯA

CON ĐƯỜNG CỔ XƯA

CON ĐƯỜNG CỔ XƯA
CON ĐƯỜNG CỔ XƯA



...
Con đường mà chư Phật Chánh Đẳng Giác thời quá khứ từng đi qua.

Ví như một người đi ngang qua rừng sâu hay dãy núi, tình cờ phát hiện ra một con đường cổ xưa - con đường mà người đời trước từng đi qua. Người ấy lần theo dấu vết ấy, đi mãi cho đến khi nhìn thấy một thành trì cổ: có vườn tược, rừng cây, hồ ao, tường thành kiên cố và đẹp đẽ.

Rồi người ấy trở về tâu với nhà vua hoặc bậc đại thần:
“Thưa chư tôn, khi đi ngang rừng núi, tôi đã thấy một con đường xưa. Tôi đi theo con đường ấy và phát hiện ra một cổ thành từng có người sinh sống, với vườn tược, hồ ao, rừng cây và tường lũy rất đẹp. Xin hãy cho dựng lại nơi ấy.”
Vị vua hoặc đại thần nghe vậy liền cho khôi phục lại thành cổ. Theo thời gian, thành ấy trở nên trù phú, đông đúc, thịnh vượng.

Cũng như vậy, Như Lai đã tìm thấy một con đường xưa - con đường mà chư Phật Chánh Đẳng Giác thời quá khứ từng đi qua.
Và con đường ấy là gì? Chính là Thánh đạo tám ngành: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

Như Lai đã đi theo con đường ấy. Khi đi theo, Ngài thấy rõ già và chết, thấy nguyên nhân khiến già chết sinh khởi, thấy cách già chết đoạn diệt, và con đường đưa đến đoạn diệt ấy.
Đi theo con đường ấy, Ngài thấy rõ từng mắc xích trong vòng duyên khởi: sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu xứ, danh sắc, thức, và hành. Ngài thấy rõ từng pháp ấy sinh khởi thế nào, diệt thế nào, và con đường đưa đến sự đoạn diệt của chúng.
Những điều Như Lai đã thấy, Ngài đã giảng lại cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ - để họ cùng hiểu và thực hành.
Và chính Phạm hạnh này - con đường ấy - trở nên hưng thịnh, quảng đại, đông đảo người tu, được cả chư Thiên và loài Người ca ngợi, tán thán và gìn giữ.
...
Nguồn: Tương Ưng Nhân Duyên. VII: Ðại Phẩm: Mahāvagga. 12.65. Thành Ấp: Nagara
https://suttacentral.net/sn12.65/vi/minh_chau?lang=en&reference=none&highlight=false

ghi chú: 172

#Tư #Tín #Hỷ





Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

14.12.25

TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH

TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH


Có hai tầng sự thật người học pháp cần phân biệt rõ: tầng quy ước và tầng bản chất.


1. Tục Đế và Chân Đế

Trong sinh hoạt hằng ngày, ta dùng vô số tên gọi để mô tả con người và sự vật. Những từ như “tôi”, “anh ấy”, “cô ấy”, “người”, “thân”, “nhà”, “xe”… đều chỉ là các quy ước giúp chúng ta giao tiếp cho dễ. Chúng là Tục Đế. Khi nhìn kỹ, những tên gọi này không có bản chất riêng, vì chúng chỉ là sự gom lại của nhiều yếu tố khác nhau. Nếu tách các yếu tố ấy ra, cái tên gọi lập tức biến mất. Vì vậy Tục Đế không mang thực tính.
Ngược lại, Chân Đế chỉ những yếu tố không thể chia nhỏ hơn được nữa - những phần thật sự cấu thành thân và tâm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; các Tâm Sở; các pháp thuộc Danh Và Sắc vận hành theo quy luật tự nhiên. Khi nhìn một con người dưới góc độ Chân Đế, ta không còn thấy “người” theo cách thường gọi, mà thấy các Uẩn đang sinh rồi diệt.

TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH
TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH



Ví dụ để làm rõ bản chất quy ước của Tục Đế:

- Những danh xưng như “người nam”, “người nữ”, “tôi”, “anh” đều là quy ước, chứ theo Chân Đế thì không có thực thể cố định nào như thế.
- Các vật thể lớn như “núi”, “đất”, “nhà”, “làng” chỉ là cách gom nhiều sắc pháp lại rồi đặt tên.
- Những câu như “tôi thấy”, “tôi nghe” cũng chỉ là phương tiện nói; thực chất không có “tôi” đứng ra làm tác nhân, chỉ có các pháp hoạt động theo nhân duyên.
- Một căn nhà, một chiếc xe, cái lu, mảnh vải… đều là sự kết hợp của nhiều sắc pháp, rồi con người đặt tên cho tiện sử dụng.
- Ngay cả ví dụ “chiếc xe uống xăng nhiều” cũng chỉ là nói theo thói quen, chứ không có chiếc xe nào thật sự “uống” được.

2. Vì sao Tục Đế là vô ngã ?

Tục Đế chỉ là tập hợp tạm bợ của các yếu tố luôn thay đổi. Những gì tạo nên cái gọi là “con người” - năm Uẩn - đều vô thường, không có gì cố định. Không có một chủ thể đứng sau điều khiển các pháp. Khi quán sát kỹ, ta thấy mọi thứ chỉ đang vận hành theo duyên sinh. Vì vậy, tìm một “cái tôi” " cái ngã" cố định trong Tục Đế là điều không thể, bởi ngay chính các yếu tố cấu thành cũng luôn biến đổi.

3. Chân Đế và Níp-bàn

Tất cả những gì thuộc Tục Đế hay các pháp hữu vi đều sinh rồi diệt. Nhưng có một pháp vượt khỏi dòng sinh diệt ấy: Níp-bàn. A tỳ đàm mô tả Níp-bàn là pháp vô vi, không thuộc thân, không thuộc tâm, không do duyên tạo. Đó là sự tắt lặng hoàn toàn của phiền não, một trạng thái an ổn không sanh không diệt. Người tu không “làm ra” Níp-bàn. Khi các phiền não được đoạn trừ, trạng thái ấy tự hiện lộ - giống như lửa tự tắt khi không còn nhiên liệu. Con đường dẫn đến đó là Đạo và Quả siêu thế.

Nếu cần một hình ảnh đơn giản: “cái chén” là Tục Đế - chỉ là tên đặt cho sự kết hợp của đất, men và hình dáng. Nó không có thực tính riêng. Các yếu tố vật chất tạo nên nó mới là Chân Đế. Còn Níp-bàn là một loại Chân Đế đặc biệt: không thuộc vật chất, không thuộc tâm, chỉ được nhận biết khi phiền não đã dứt.

Các Yếu Tố Chân Đế:

- Sắc pháp: Đất có đặc tính cứng; Nước có tính kết dính; Lửa có tính nóng-lạnh; Gió có tính chuyển động. Khi chạm vào “tấm bảng đen”, cảm giác cứng-lạnh chính là sắc pháp, còn bản thân khái niệm “tấm bảng đen” chỉ là Tục Đế.
- Danh pháp: Tâm với chức năng “hay biết cảnh”; Tư Tác Ý (ý chí) là yếu tố dẫn động tạo tác; Thọ là cảm giác vui-buồn-trung tính phát sinh theo nhân đã tạo, không có cái “tôi” nào đứng ra cảm nhận.
- Níp-bàn: pháp vô vi, tĩnh lặng, không do duyên tạo, vượt ngoài các Uẩn. Tên gọi “Níp-bàn” cũng chỉ là quy ước, còn bản chất thì vượt ngoài ngôn ngữ.

Nhìn tổng thể, Tục Đế giúp ta giao tiếp và sinh hoạt thuận tiện, nhưng khi soi xét bằng trí tuệ, ta thấy chúng chỉ là những tên gọi tạm, dựa trên sự kết hợp của các yếu tố tối hậu. Còn Chân Đế là những pháp có thực tính, vận hành theo quy luật tự nhiên. Con đường tu học là nhìn xuyên qua lớp vỏ quy ước ấy để thấy rõ bản chất sinh -diệt trong từng khoảnh khắc.

-Nguồn: tổng hợp để tự học. Không có giá trị tham khảo.

Ghi chú: 125

#Tư #Cần #Niệm 




Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

9.12.25

ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI

ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI


...
Trong chú giải phân thế này, trong 16 thiền tuệ, trí phân biệt danh sắc và liễu duyên tuệ, có nghĩa là buổi đầu mình chưa biết đạo thì mình thấy rằng con chim con cá, ông A bà B, cái nhà chiếc xe. 

ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI
ĐOẠN NGHI TỊNH KAṄKHĀVITARAṆAVISUDDHI


Đúng, chỉ bấy nhiêu đó thôi, nhưng khi mình biết đạo rồi, nhất là phải học giáo lý, đặc biệt là giáo A Tỳ Đàm. Mình học rồi mình mới thấy, à thì ra toàn bộ vũ trụ này và vô lượng vũ trụ khác, thì toàn bộ sự hiện hữu của tất cả chúng sinh và những thứ không phải chúng sinhnó chỉ nằm gọn trong 2 thứ thôi. 
Nếu không phải là Danh Pháp -  tức là tinh thần, thì nó chỉ còn lại Sắc Pháp -  tức là vật chất. 
Tinh thần ở đây -  Danh Pháp = tinh thần; tinh thần = 1 tâm vương + 52 tâm sở. 
Thể xác -  Sắc Pháp = Vật chất; Vật chất = 4 đại (đất, nước, lửa, gió) + 24 thứ vật chất đi cùng
Chỉ vậy thôi, nhớ bao nhiêu đó thôi. 
Có nghĩa là hành giả thấy toàn bộ vũ trụ này từ chúng sanh đến ngoài chúng sanh như cây cỏ, đất đá cũng không nằm ngoài 2 cái này (Danh Pháp và Sắc Pháp). 
Đối với loài chúng sinh thì nó gồm có danh có sắc -  gồm có tinh thần và vật chất. Những cái gì không thuộc về chúng sinh thì nó chỉ gồm vật chất. 
Nhưng vật chất đây là gì? Là 4 đại + 24 thứ kia. 
Đây là nói gọn không phân tích nha, không phải lúc nào cũng có đủ 28 đâu, có lúc thêm lúc bớt. Nhớ cái đó, nhưng mình nói tổng quát là như vậy. Cái gọi là vật chất thì maximum gồm có 4 đại + 24 thứ đi cùng, chỉ vậy thôi. 

Cái đó là biết như con vẹt, két, sáo, nhồng, cưỡng, cái biết này không có xài được gì hết, nó chỉ là cái nền cho hành giả tu tứ niệm xứ. 
Rồi thì hành giả đi vào đạo, hành giả sống chánh niệm, buổi đầu hành giả tu như em bé tập đi chập chững, đủng đỉnh vậy đó. 
Đi biết là đi, ngồi xuống biết là ngồi xuống, có người còn chi tiết hơn, cái mông chạm biết là mông chạm, cái gót chạm vào mông biết chạm, thẳng lưng biết rõ là đang thẳng lưng, sửa cái mặt cho nó ngay biết là mình đang ngửa mặt lên, biết mình đang nhìn về phía trước, biết mình đang khép mắt lại, miệng khép hờ, biết, biết rõ. 
Rồi, đây, đây, bắt đầu không điều khiển chỉ theo dõi. 
Đọc câu thần chú này, “không điều khiển, chỉ theo dõi; chỉ theo dõi, không điều khiển”, cái gì ta? Hơi thở. Cứ là nó vô đầy thì nó bèn có nhu cầu đi ra, khi nó ra hết ga thì nó bèn có nhu cầu đi vô. Khi nó vô đến mức nào đó, nó sẽ yên 1 lát, nó sẽ ngậm hơi trong đó, nó giữ hơi trong đó 1 ít thời gian rồi nó mới bắt đầu đi ra. 
Hành giả chỉ quan sát mà thôi, buổi đầu như vậy, lâu ngày với chánh niệm sâu dày, vững vàng, hành giả mới nhận ra thêm nhiều thứ khác, hành giả mới thấy rằng hơi thở trước không phải là hơi thở sau. 

Cái tâm biết hơi thở trước không phải là cái tâm của hơi thở sau, hành giả thấy rằng hơi thở là thân và tâm biết hơi thở là tâm. Thân tâm hồi nãy không phải là thân tâm bây giờ và lúc đó tự trong đáy sâu tâm thức của hành giả thấm thía được rằng, thì ra sự hiện hữu của mình chỉ là sự ráp nối, lắp ghép của mấy thứ phù du, thân thì lúc vầy lúc khác, tâm thì lúc vầy lúc khác. Lấy 2 thân tâm vô thường ấy cộng lại làm ra tấm thân lúc vầy lúc khác. Và cái thấm thía này, cái tiêu hóa này tự hành giả chứ không phải vay mượn từ kinh điển hay thầy bạn như trước đây nữa. 

Hành giả biết rõ cái này nè, cái hơi thở thuộc về Sắc Pháp, thuộc vật chất, mà cái tâm biết hơi thở này nó thuộc về Danh Pháp, thuộc về tinh thần. Thì cái biết này được gọi là cái trí phân biệt hiểu rõ cái gì là danh, cái gì là sắc. 
Cái trí thứ 2 là hành giả biết rõ cái nhân cái duyên tạo của Danh Sắc. Hành giả biết rõ đây nó đau, nó đang đau, nó muốn đổi tư thế, nó ngồi lâu nó muốn trở giò, nó muốn đứng lên, nó muốn từ kiết già chuyển qua bán già, hành giả biết rõ đây là khổ. Và hành giả biết khi mà đổi, vì nó khổ cho nên nó mới muốn -  muốn là tham, chính vì nó muốn đổi cho nên nó mới đổi, khi đổi được rồi nó bèn thoải mái, nó bèn an lạc, nó bèn thích thú. Hành giả biết rõ cái thích thú này có được do mình đổi oai nghi mà có. 

Như vậy cái gọi là hạnh phúc, đau khổ trong đời này nó vốn đắp đổi cho nhau do có đau khổ mới có hạnh phúc. Khi 1 đau khổ được giải quyết thì bèn có hạnh phúc và khi hạnh phúc biến mất thì bèn có cái đau khổ. Đau khổ đây là sự khó chịu. Cứ nhớ sự vắng mặt của đau khổ chính là hạnh phúc, sự vắng mặt của hạnh phúc chính là đau khổ. Khi vấn đề đau khổ được giải quyết ta bèn gọi cái giải pháp là hạnh phúc, và khi hạnh phúc nó không ở với mình nữa, nó bỏ mình đi thì ta bèn gọi cái giây phút đó là giây phút đau khổ. Làm ơn về ngồi lại coi có đúng như vậy không, về tu tập coi đúng như vậy không. Có nghĩa hạnh phúc chính là cái giây phút đau khổ đi mất, không còn nữa, chỉ vậy thôi. 

Hai ông này đắp đổi cho nhau và hành giả thấy được à thì ra do duyên khổ nó mới tạo ra ái, từ ái mới tạo ra cái thoải mái này nè. Cái thoải mái này, đây đây nó đang mất, chính cái chuyện nó mất nó sẽ tạo ra đau khổ. Như vậy hành giả thấy rằng do mất cái này mới có cái kia, do có cái kia nên mới có cái này. Thấy rằng do cái này sinh mới có cái kia, do cái kia diệt mới có cái này. 
Đó là Liễu Duyên Tuệ (liễu là cái thấy). Toàn bộ đời sống quý vị chỉ là vậy thôi. 

Tôi nói không biết bao nhiêu lần, không hề có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp cho đau khổ thôi quý vị.
...
Nguồn: Bài giảng Kinh Thập Thượng (Dasuttara Sutta) 1 Kalama tri ân bạn ngocthytran00 ghi chép 




===

ĐOẠN NGHI TỊNH, LIỄU DUYÊN TUỆ


Là khả năng hiểu biết về 12 Duyên Sinh, 24 Duyên Hệ, lộ Tâm, lộ Sắc để thấy được cái gọi là chúng sinh gồm có những gì và thế nào là sự luân hồi siêu đọa.

Thuật ngữ Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi (Đoạn nghi tịnh nằm trong hệ thống “Bảy loại thanh tịnh” (Satta Visuddhi) -  được giảng giải chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga), do ngài Buddhaghosa soạn dựa trên Aṭṭhakathā (chú giải Pāli của Majjhima NikāyaDīgha Nikāya). Nguồn gốc của “Đoạn Nghi Tịnh” xuất phát từ chính các kinh Pāli mô tả con đường tuệ quán -  đặc biệt là Kinh Rathavinīta (MN 24) và Kinh Saṃyutta Nikāya phần Vibhaṅga-saṃyutta.

1. Kinh Rathavinīta (MN 24)

Đây là văn bản gốc nói đến “bảy loại thanh tịnh”, trong đó Đoạn Nghi Tịnh là loại thanh tịnh thứ hai.
Đức Phật nói với Tôn giả Punna và Tôn giả Sariputta:

“Không phải vì giới mà thanh tịnh được cứu cánh,
mà vì nhờ giới nên được thanh tịnh tâm,
nhờ tâm thanh tịnh mà được thấy pháp,
nhờ thấy pháp mà vượt qua nghi,
nhờ vượt nghi mà biết đạo phi đạo,
nhờ biết đạo phi đạo mà đạt đến đạo tri kiến,
nhờ đạo tri kiến mà đạt đến tri kiến tịnh.”
(MN 24, Rathavinīta Sutta)

Từ đây, ngài Buddhaghosa hệ thống hóa thành bảy cấp độ:
1. Giới tịnh, 2. Tâm tịnh, 3. Kiến tịnh, 4. Đoạn nghi tịnh (Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi), 5. Đạo phi đạo tri kiến tịnh, 6. Hành tri kiến tịnh, 7. Tri kiến tịnh.

2. Nguồn Pāli trong Thanh Tịnh Đạo Luận -  Visuddhimagga, chương XVIII

Tại đây, ngài Buddhaghosa giải thích chi tiết:
“Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi nāma yaṃ nāmarūpaṃ paccayapariggahena vavatthapetvā sakkāyadiṭṭhikaṅkhānaṃ vūpasamo hoti.”
(Visuddhimagga XVIII.3)
Tạm dịch:
“Cái gọi là Đoạn nghi tịnh là khi hành giả phân biệt rõ danh -  sắc bằng cách quán xét các duyên, khiến cho các nghi hoặc về thân kiến (sakkāya-diṭṭhi) được lắng dịu.”


Đây là phần kinh -  luận trình bày chi tiết 12 chi duyên khởi, nền tảng cho tuệ vượt nghi:
“Avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.”
(Do vô minh duyên hành, do hành duyên thức… như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn.)
Khi hành giả thấy được chuỗi duyên này trong chính thân tâm mình, nghi về quá khứ và vị lai đều được đoạn trừ -  đây chính là Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi theo ngôn ngữ của Visuddhimagga.

4. Kinh Saṃyutta Nikāya -  Nidāna-saṃyutta (SN 12.65, Nagara Sutta)

Đức Phật mô tả quá trình chứng ngộ tương tự:
“Ví như người đi trong rừng tìm thấy con đường cổ, đi theo con đường ấy thấy một thành cổ, có tường cao, ao hồ, rừng cây... Người ấy báo lại với vua rằng: đây là thành cũ của vua xưa.”
Đức Phật kết luận:
“Cũng vậy, Ta thấy con đường cổ ấy -  đó là Thánh đạo tám ngành -  dẫn đến sự an ổn, giác ngộ, Niết-bàn.”
Sự “thấy con đường cổ” chính là trí tuệ vượt nghi, khi hành giả thấy duyên khởi không do ai tạo, chỉ là pháp vận hành. 

- Nguồn: Tổng hợp để tự học. Không có giá trị tham khảo.

Ghi chú: 132

#Tư #Giải #Tuệ





Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

7.12.25

ĐẠI NGUYỆN

ĐẠI NGUYỆN


Tinh thần của người tu hành theo Đại nguyện thường bộc lộ rất rõ ở ba điểm: luôn hướng về điều tốt đẹp hơn, biết buông bỏ tận gốc và nuôi dưỡng trái tim rộng mở cùng trí tuệ vững chãi.


Trước hết là khả năng luôn nhìn về phía trước. Một vị hành theo hạnh Bồ Tát không bao giờ đứng yên trong những gì mình đã đạt được. Dù đó là tài sản, quyền lực, sự an ổn trong gia đình hay cả những thành tựu tinh thần như thiền định, Ngài vẫn thấy đó chỉ là những trạm dừng tạm bợ. Tâm của Ngài quen hướng lên, luôn tìm cái tốt hơn, cái rộng hơn, cái có thể đem lại lợi ích cho nhiều người hơn. Vì vậy, những thứ thế gian xem là quý -  tiền bạc, uy tín, địa vị -  lại trở nên nhẹ như hạt bụi trong mắt Ngài. Trái tim ấy không bị giới hạn bởi gia đình, thân tộc hay bất kỳ biên giới nào. Đối với Ngài, tất cả chúng sinh đều là người thân, đều đáng được thương và được dìu dắt.

Tinh thần của người tu hành theo Đại nguyện thường bộc lộ rất rõ ở ba điểm luôn hướng về điều tốt đẹp hơn, biết buông bỏ tận gốc và nuôi dưỡng trái tim rộng mở cùng trí tuệ vững chãi.
Tinh thần của người tu hành theo Đại nguyện thường bộc lộ rất rõ ở ba điểm luôn hướng về điều tốt đẹp hơn, biết buông bỏ tận gốc và nuôi dưỡng trái tim rộng mở cùng trí tuệ vững chãi.



Để làm được điều đó, Bồ Tát phải sống với tinh thần buông bỏ rất mạnh. Buông bỏ trong đạo không phải là làm ngơ hay từ chối đời sống, mà là không để mình bị trói bởi những gì không cần giữ. Khi hướng về điều tốt hơn, Ngài sẵn sàng rời những thứ quen thuộc. Khi đối diện với phiền não, Ngài không chứa chấp hay phân tích chúng như đống ve chai, mà thấy rõ đây là rác tâm và nhẹ nhàng đặt xuống. Bố thí, nhường nhịn, hy sinh… đều là những cách để phá bỏ sự chấp thủ vào cái “của tôi”. Mức độ buông bỏ lớn nhất chính là không còn giữ chặt một cái “tôi” cố định, không xem thân tâm này là thứ tuyệt đối phải bảo vệ.

Tất cả hành động của Bồ Tát đều được nâng đỡ bởi hai sức mạnh: lòng thương rộng lớn và trí tuệ sáng tỏ. Trí tuệ giúp Ngài thấy mọi hiện tượng đều thay đổi từng sát na, không có gì đáng nắm giữ, không có gì đủ bền để trở thành chỗ dựa. Từ cái nhìn ấy, Ngài hiểu rõ khổ đau của đời sống và biết phải làm gì để không bị cuốn vào những hệ lụy thường tình. Nhưng trí tuệ một mình thì chưa đủ; lòng thương mới là động lực khiến Ngài bước vào đời. Đại Bi là khả năng thương không giới hạn: thương người thân, thương người xa lạ, thương cả người từng gây hại cho mình. Tình thương ấy vượt khỏi thành lũy gia đình, tôn giáo hay quốc độ.

Khi trí tuệ hợp lại với lòng thương, một sức mạnh khác được sinh ra: sự can đảm để dấn thân. Nhờ đó, Bồ Tát chấp nhận đi vào những nơi tối tăm nhất của đời sống để nâng đỡ chúng sinh, thậm chí hy sinh cả thân mạng nếu điều đó mang lại lợi ích cho người khác.
Giá trị của một con người, như lời Phật đã chỉ dạy, không nằm ở chỗ anh ta giữ được bao nhiêu, mà ở chỗ anh ta có thể cho đi những gì. Hạnh Bồ Tát là hạnh của người dám cho -  cho sức lực, trí tuệ, thời gian, thậm chí cả mạng sống -  mà không hề nuối tiếc. Con đường ấy rộng và dài, nhưng những ai đi theo đều chung một nhịp thở: sống vì điều tốt đẹp hơn, buông bỏ điều nên buông và mở rộng trái tim đến tận cùng.

-Nguồn: tổng hợp để tự học. Không có giá trị tham khảo.
- Nguồn tham chiếu: https://toaikhanh.com 

Ghi chú: 125
#Tư #Tác #Tuệ




Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

2.12.25

THỌ NIỆM XỨ 4

THỌ NIỆM XỨ 4

...
Nếu không có cố gắng tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác quan sát các Cảm Thọ thì khi Thọ Khổ sanh khởi có khi chúng ta lại muốn.
bỏ người 
bỏ đời
bỏ mình
Trong  bực bộisân hận.
THỌ NIỆM XỨ 4




Ghi chú: 123

#Thọ #Hành #Niệm





Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

25.11.25

HOẠI KHỔ SAMSKARA DUKKHATA

HOẠI KHỔ SAMSKARA DUKKHATA


Trong dòng chảy miên viễn bất tận mọi gợn sóng là vô nghĩa. Một đời người, một gợn sóng. Tất cả đều cuốn trôi theo dòng sông Hành.

HOẠI KHỔ SAMSKARA DUKKHATA




Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

Ghi chú: 173

#Tư #Xả #Tuệ





Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

19.11.25

Tài Liệu Diễn Giải Chuyên Sâu Về Các Khái Niệm Cốt Lõi Trong Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma)

Tài Liệu Diễn Giải Chuyên Sâu Về Các Khái Niệm Cốt Lõi Trong Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma)

Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma), hay Tạng Diệu Pháp, là một trong ba tạng kinh điển cốt lõi của Phật giáo, đại diện cho đỉnh cao của tư duy triết học và tâm lý học Phật giáo. Mục đích chính của Vô Tỷ Pháp là phân tích một cách có hệ thống và không qua lăng kính quy ước về bản chất của thực tại, chia tách nó thành các đơn vị cứu cánh, hay còn gọi là các pháp chân đế (paramattha dhamma). Tính "vi diệu" của Abhidhamma nằm ở khả năng phân tích thực tại một cách trực diện, vượt qua các khái niệm quy ước (như 'tôi', 'bạn', 'cái bàn') để đi thẳng vào các thực tại tối hậu này. Chính sự phân tích không qua trung gian này tạo nên sự khác biệt và chiều sâu triết học của Vô Tỷ Pháp, cung cấp một cái nhìn sâu sắc về nền tảng cấu thành nên mọi kinh nghiệm của chúng sinh.

Tài liệu này được biên soạn nhằm mục đích làm sáng tỏ một cách hệ thống các khái niệm triết học trung tâm trong Vô Tỷ Pháp. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc phân tích các Bất Thiện Pháp (nguồn gốc của khổ đau), tiếp đến là các Pháp Hỗn Hợp (những yếu tố năng động của tâm), và sau cùng là khám phá các khuôn khổ phân tích toàn diện như Tổng Hợp Tận Thị (Ngũ Uẩn, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới) và Duyên Hệ. Thông qua việc diễn giải chi tiết này, tài liệu mong muốn cung cấp một sự hiểu biết sâu sắc về cấu trúc của thực tại và con đường giải thoát khỏi vòng luân hồi khổ đau theo giáo lý Phật giáo.



1.0 Phân Tích Các Pháp Bất Thiện (Akusala Dhamma) - Nguồn Gốc Của Khổ Đau

Việc phân tích các pháp bất thiện không chỉ là một bài tập triết học mà còn mang một tầm quan trọng chiến lược trong lộ trình tu tập. Thấu hiểu bản chất, cơ chế hoạt động và mối tương quan của các phiền não là bước đầu tiên và cốt yếu trong việc nhận diện và loại trừ chúng khỏi tâm thức. Chỉ khi nhận biết rõ ràng kẻ thù nội tại này, hành giả mới có thể áp dụng các phương pháp đối trị hiệu quả để thanh lọc tâm và tiến bước trên con đường giải thoát.

1.1 Tổng quan về Chín Nhóm Bất Thiện Pháp

Vô Tỷ Pháp phân loại các phiền não và chướng ngại tinh thần vào chín nhóm chính, mỗi nhóm soi chiếu một khía cạnh khác nhau của các trạng thái tâm tiêu cực. Chín nhóm này bao gồm:

  • Tứ Lậu Hoặc (Àsava)
  • Tứ Bộc Lưu (Ogha)
  • Tứ Ách Phược (Yoga)
  • Tứ Hệ Phược (Gantha)
  • Tứ Chấp Thủ (Upàdàna)
  • Ngũ Triền Cái (Nìvaraṇa)
  • Thất Tùy Miên (Anusaya)
  • Thập Kiết Sử (Saṃyojana)
  • Thập Phiền Não (Kilesa)

1.2 Diễn giải chi tiết các nhóm Bất Thiện Pháp

Mỗi nhóm pháp bất thiện sau đây sẽ được phân tích chi tiết về định nghĩa, các thành phần cấu thành và chi pháp (tâm sở - cetasika) tương ứng.

1.2.1 Tứ Lậu Hoặc (Àsava)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Àsava có nghĩa là "các sự vật đã bị ngâm chìm rất lâu dài", ví như rượu men đã được ủ lâu ngày. Các pháp này được gọi là Lậu Hoặc vì chúng đã dính khắt và chồng chất trong uẩn giới tính của chúng sinh qua vô số kiếp sống, đồng thời chúng tuôn chảy ra qua các giác quan, làm say đắm chúng hữu tình trong vòng luân hồi.

Chi pháp: Lậu Hoặc bao gồm ba tâm sở chính: Tham (Lobha), Tà Kiến (Diṭṭhi), và Si (Moha).

Lậu Hoặc

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Lậu (Kàmàsava)

Sự tuôn chảy, say đắm trong các cõi Dục.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Hữu Lậu (Bhavàsava)

Sự tuôn chảy, say đắm trong các cõi Sắc và Vô Sắc Giới, cũng như trong thiền định.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Kiến Lậu (Diṭṭhàsava)

Sự tuôn chảy của các tà kiến, sự thấy sai chấp lầm.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Vô Minh Lậu (Avijjàsava)

Sự tuôn chảy của vô minh, không liễu tri Tứ Thánh Đế.

Tâm Sở Si (Moha)

Lưu ý: Mặc dù chi pháp trực tiếp của Dục Lậu và Hữu Lậu là Tâm Sở Tham, nhưng chúng vận hành trên nền tảng của Vô Minh và thường được củng cố bởi Tà Kiến. Cách phân loại này nhấn mạnh khía cạnh 'dính mắc' (Tham) là chủ đạo.

1.2.2 Tứ Bộc Lưu (Ogha)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Ogha có nghĩa là "dòng nước lũ cuốn trôi". Các pháp này được gọi là Bộc Lưu vì chúng có sức mạnh nhận chìm và cuốn trôi chúng hữu tình vào đại dương của vòng luân hồi khổ, khiến họ không thể thoát ra được.

Chi pháp: Bộc Lưu có cùng chi pháp với Lậu Hoặc, nhấn mạnh đến khía cạnh năng lực cuốn trôi của chúng.

Bộc Lưu

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Bộc Lưu (Kàmogha)

Dòng nước lũ của dục ái.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Hữu Bộc Lưu (Bhavogha)

Dòng nước lũ của ái hữu (ái trong các cõi Sắc và Vô Sắc).

Tâm Sở Tham (Lobha)

Kiến Bộc Lưu (Diṭṭhogha)

Dòng nước lũ của tà kiến.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Vô Minh Bộc Lưu (Avijjogha)

Dòng nước lũ của vô minh.

Tâm Sở Si (Moha)

1.2.3 Tứ Ách Phược (Yoga)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Yoga có nghĩa là "sự trói buộc", "cái ách". Các pháp này được gọi là Ách Phược vì chúng trói buộc chúng hữu tình vào vòng luân hồi khổ, khiến họ không thể vuột thoát ra được.

Chi pháp: Tương tự như Lậu Hoặc và Bộc Lưu, Ách Phược cũng bao gồm ba tâm sở Tham, Tà Kiến và Si.

Ách Phược

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Ách Phược (Kàmayoga)

Cái ách của dục ái.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Hữu Ách Phược (Bhavayoga)

Cái ách của ái hữu.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Kiến Ách Phược (Diṭṭhiyoga)

Cái ách của tà kiến.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Vô Minh Ách Phược (Avijjàyoga)

Cái ách của vô minh.

Tâm Sở Si (Moha)

Dù có cùng chi pháp, ba nhóm Lậu Hoặc, Bộc Lưu, và Ách Phược nhấn mạnh ba khía cạnh ẩn dụ khác nhau của phiền não. Lậu Hoặc (Àsava) nhấn mạnh tính chất "ngâm ủ lâu ngày" và "tuôn chảy" như rượu men. Bộc Lưu (Ogha) nhấn mạnh sức mạnh "cuốn trôi, nhận chìm" như một trận lũ. Ách Phược (Yoga) nhấn mạnh khả năng "trói buộc, cột chặt" chúng sinh vào khổ đau như một cái ách. Sự phân loại này cho thấy sự tinh tế của Đức Phật trong việc dùng các hình ảnh khác nhau để mô tả cùng một kẻ thù nội tâm.

1.2.4 Tứ Hệ Phược (Gantha)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Gantha có nghĩa là "sự móc dính", "sự thắt chặt". Các pháp này được gọi là Hệ Phược vì chúng thắt chặt và móc dính Danh Thân (tâm) và Sắc Thân (thân) của một chúng sinh với nhau, và cũng móc dính các đời sống quá khứ, hiện tại và vị lai lại với nhau.

Chi pháp: Hệ Phược bao gồm Tham, Sân và Tà Kiến.

Hệ Phược

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Tham Thân Hệ Phược (Abhijjhàkàyagantha)

Sự thắt chặt do tham ái, bao gồm cả tham vi tế và thô thiển.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Sân Thân Hệ Phược (Byàpàdakàyagantha)

Sự thắt chặt do sân hận, bất duyệt ý, từ vi tế đến thô thiển.

Tâm Sở Sân (Dosa)

Giới Cấm Thủ Hệ Phược (Sìlabbataparàmàsagantha)

Sự thắt chặt do bám víu vào các giới cấm và nghi lễ sai lầm.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Thực Tại Chấp Hệ Phược (Idaṃsaccàbhinivesagantha)

Sự thắt chặt do chấp chặt vào quan điểm của mình là chân lý duy nhất.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

1.2.5 Tứ Chấp Thủ (Upàdàna)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Upàdàna được chiết tự từ Upa (nắm bắt) và Àdàna (túm chặt), có nghĩa là "sự bám giữ, chấp thủ một cách chặt chẽ". Các pháp này được ví như một con rắn chụp và giữ chặt con mồi, thể hiện một sự dính mắc mãnh liệt vào các đối tượng.

Chi pháp: Chấp Thủ bao gồm hai tâm sở chính là Tham và Tà Kiến.

Chấp Thủ

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Thủ (Kàmupàdàna)

Sự bám giữ chặt vào các đối tượng của cõi Dục.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Kiến Thủ (Diṭṭhupàdàna)

Sự bám giữ chặt vào các tà kiến.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Giới Cấm Thủ (Sìlabbatupàdàna)

Sự bám giữ chặt vào các giới cấm và nghi lễ sai lầm.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Ngã Luận Thủ (Attavàdupàdàna)

Sự bám giữ chặt vào quan điểm có một "cái tôi" hay "bản ngã" thường hằng.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

1.2.6 Ngũ Triền Cái (Nìvaraṇa)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Nìvaraṇa có nghĩa là "sự che án, cản trở". Các pháp này được gọi là Triền Cái vì chúng che lấp tâm trí, ngăn cản sự phát sinh của các thiện pháp, đặc biệt là sự tập trung và trí tuệ trong thiền định.

Triền Cái

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Tham Dục Triền Cái (Kàmacchandanìvaraṇa)

Sự khao khát, ham muốn trong năm cảnh dục.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Sân Độc Triền Cái (Byàpàdanìvaraṇa)

Sự sân hận, ác ý, bất mãn.

Tâm Sở Sân (Dosa)

Hôn Thùy Triền Cái (Thìnamiddhanìvaraṇa)

Sự dã dượi của tâm (hôn trầm) và sự buồn ngủ (thụy miên).

Tâm Sở Hôn Trầm và Thụy Miên

Trạo Hối Triền Cái (Uddhaccakukkuccanìvaraṇa)

Sự phóng dật của tâm (trạo cử) và sự hối hận về điều đã làm hoặc chưa làm.

Tâm Sở Trạo Cử và Hối Hận

Hoài Nghi Triền Cái (Vicikicchànìvaraṇa)

Sự nghi ngờ, do dự về Tam Bảo, về nhân quả, và về con đường tu tập.

Tâm Sở Hoài Nghi

1.2.7 Thất Tùy Miên (Anusaya)

Định nghĩa: Tùy Miên là các phiền não ở dạng tiềm ẩn, ngủ ngầm trong dòng tâm thức của chúng sinh. Chúng có thực tính tĩnh lặng và không biểu hiện ra ngoài cho đến khi có cảnh phù hợp tiếp xúc qua các giác quan, lúc đó chúng mới trỗi dậy.

Tùy Miên

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Ái Tùy Miên (Kàmaràgànusaya)

Tham ái trong cõi Dục ngủ ngầm.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Hữu Ái Tùy Miên (Bhavaràgànusaya)

Tham ái trong cõi Sắc và Vô Sắc ngủ ngầm.

Tâm Sở Tham (Lobha)

Khuể Phẫn Tùy Miên (Paṭighànusaya)

Sân hận ngủ ngầm.

Tâm Sở Sân (Dosa)

Ngã Mạn Tùy Miên (Mànànusaya)

Sự kiêu mạn, so sánh mình với người khác ngủ ngầm.

Tâm Sở Ngã Mạn (Māna)

Kiến Tùy Miên (Diṭṭhànusaya)

Tà kiến ngủ ngầm.

Tâm Sở Tà Kiến (Diṭṭhi)

Hoài Nghi Tùy Miên (Vicikicchànusaya)

Sự hoài nghi ngủ ngầm.

Tâm Sở Hoài Nghi (Vicikicchā)

Vô Minh Tùy Miên (Avijjàànusaya)

Vô minh ngủ ngầm.

Tâm Sở Si (Moha)

1.2.8 Thập Kiết Sử (Saṃyojana)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Saṃyojana có nghĩa là "sợi dây trói buộc". Các pháp này được gọi là Kiết Sử vì chúng trói buộc chúng hữu tình vào vòng luân hồi khổ đau, ngăn cản họ đạt đến giải thoát. Vô Tỷ Pháp trình bày hai cách phân loại Thập Kiết Sử.

Kiết Sử theo Tạng Kinh (Sutta Pitaka)

Kiết Sử (Theo Tạng Kinh)

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Ái Kiết Sử

Tâm Sở Tham

Sắc Ái Kiết Sử

Tâm Sở Tham

Vô Sắc Ái Kiết Sử

Tâm Sở Tham

Khuể Phẫn Kiết Sử

Tâm Sở Sân

Ngã Mạn Kiết Sử

Tâm Sở Ngã Mạn

Tà Kiến Kiết Sử

Tâm Sở Tà Kiến

Giới Cấm Thủ Kiết Sử

Tâm Sở Tà Kiến

Hoài Nghi Kiết Sử

Tâm Sở Hoài Nghi

Trạo Cử Kiết Sử

Tâm Sở Trạo Cử

Vô Minh Kiết Sử

Tâm Sở Si

Kiết Sử theo Tạng Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma Pitaka)

Kiết Sử (Theo Vô Tỷ Pháp)

Chi Pháp Tương Ứng

Dục Ái Kiết Sử

Tâm Sở Tham

Hữu Ái Kiết Sử

Tâm Sở Tham

Khuể Phẫn Kiết Sử

Tâm Sở Sân

Ngã Mạn Kiết Sử

Tâm Sở Ngã Mạn

Tà Kiến Kiết Sử

Tâm Sở Tà Kiến

Giới Cấm Thủ Kiết Sử

Tâm Sở Tà Kiến

Hoài Nghi Kiết Sử

Tâm Sở Hoài Nghi

Tật Đố Kiết Sử

Tâm Sở Tật Đố (Issā)

Lận Sắc Kiết Sử

Tâm Sở Lận Sắc (Macchariya)

Vô Minh Kiết Sử

Tâm Sở Si

Sự khác biệt giữa hai hệ thống cho thấy góc nhìn phân tích của Vô Tỷ Pháp. Thay vì phân chia Tham Ái thành ba loại (Dục, Sắc, Vô Sắc) và bao gồm Trạo Cử, Tạng Vô Tỷ Pháp gộp Sắc Ái và Vô Sắc Ái thành Hữu Ái, và thay thế Trạo Cử bằng Tật Đố (ghen tị) và Lận Sắc (bỏn xẻn). Điều này nhấn mạnh rằng Tật Đố và Lận Sắc là những "sợi dây trói buộc" cực kỳ mạnh mẽ và phổ biến trong tâm chúng sinh, đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn cản sự phát triển của thiện pháp và sự an lạc nội tâm.

1.2.9 Thập Phiền Não (Kilesa)

Định nghĩa: Thuật ngữ Pāli Kilesa có nghĩa là "sự ô nhiễm, phiền muộn". Đây là những pháp làm cho tâm trở nên nóng nảy, ưu não và bất an. Chúng là những tác nhân trực tiếp gây ra khổ đau.

Phiền Não

Định Nghĩa

Chi Pháp Tương Ứng

Tham Ái (Lobha)

Sự hoan hỷ, dính mắc trong các cảnh hiệp thế.

Tâm Sở Tham

Sân Hận (Dosa)

Sự oán giận, bất mãn.

Tâm Sở Sân

Si Mê (Moha)

Sự lầm lạc, không liễu tri chân lý.

Tâm Sở Si

Ngã Mạn (Māna)

Sự kiêu mạn, so sánh hơn thua.

Tâm Sở Ngã Mạn

Tà Kiến (Diṭṭhi)

Sự thấy sai chấp lầm.

Tâm Sở Tà Kiến

Hoài Nghi (Vicikicchā)

Sự nghi ngờ, do dự.

Tâm Sở Hoài Nghi

Hôn Thùy (Thīnaṃ)

Sự dã dượi, co rút của tâm.

Tâm Sở Hôn Trầm

Trạo Cử (Uddhaccaṃ)

Sự phóng dật, không yên của tâm.

Tâm Sở Trạo Cử

Vô Tàm (Ahirikaṃ)

Sự không hổ thẹn với tội lỗi.

Tâm Sở Vô Tàm

Vô Quý (Anottappaṃ)

Sự không ghê sợ hậu quả của tội lỗi.

Tâm Sở Vô Quý

1.3 Đánh giá Mối quan hệ tương quan

Mặc dù nhiều nhóm pháp bất thiện có chung chi pháp (như Tham, Sân, Si), sự phân loại khác nhau nhằm nhấn mạnh các chức năng và tác động riêng biệt của chúng.

  • Sự khác biệt giữa Tham Ác/Sân Độc trong Ý Ác Hạnh và Hệ Phược:
    • Ý Ác Hạnh (Manoduccarita): Tham Ác và Sân Độc ở đây mang tính chất thô thiển. Tham Ác là sự mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp. Sân Độc là sự suy nghĩ mưu hại, nguyền rủa người khác cho đến chết.
    • Hệ Phược (Gantha): Tham Thân Hệ Phược và Sân Thân Hệ Phược bao gồm cả khía cạnh thô thiển và vi tế. Chúng không chỉ là hành vi chiếm đoạt hay mưu hại, mà còn là sự dính mắc, bất duyệt ý vi tế đối với tài sản của mình hoặc của người khác, dù hợp pháp hay không.
  • Ba Cấp Độ Của Phiền Não:
    1. Tùy Miên (Anusaya): Cấp độ ngủ ngầm, tiềm ẩn trong dòng tâm thức, chưa biểu hiện ra ngoài. Đây là dạng phiền não vi tế và gốc rễ nhất.
    2. Khởi Lập (Pariyuṭṭhàna): Khi có cảnh duyên tác động, phiền não từ dạng Tùy Miên trỗi dậy, xuất hiện ở lộ ý môn dưới dạng các ý nghĩ bất thiện.
    3. Việt Cấp (Vìtikkama): Khi phiền não ở cấp độ Khởi Lập trở nên mãnh liệt, chúng sẽ bộc phát ra ngoài qua hành động của thân và lời nói, tạo thành các ác nghiệp cụ thể.

Sau khi đã phân tích các pháp bất thiện là nguồn gốc của khổ đau, chúng ta cần xem xét đến các pháp hỗn hợp. Đây là những yếu tố có thể thuộc cả ba loại: thiện, bất thiện, và vô ký, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình cấu trúc và năng động của tâm thức, sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo.

2.0 Phân Tích Các Pháp Hỗn Hợp (Missaka Saṅgaha) - Các Yếu Tố Năng Động Của Tâm

Việc nghiên cứu các pháp hỗn hợp là thiết yếu để hiểu được các yếu tố cấu thành và năng động của cả tâm thiện và tâm bất thiện. Các pháp này không tự mang bản chất thiện hay ác, mà tùy thuộc vào tâm mà chúng phối hợp. Phân tích chúng cung cấp một cái nhìn toàn diện về cơ chế vận hành của tâm và các năng lực chi phối hành vi và nhận thức.

2.1 Lục Nhân (Hetu) - Cội Rễ Của Hành Vi

Nhân (Hetu) là những pháp làm cho tâm và các tâm sở đồng sinh trở nên vững chắc, giống như rễ cây làm cho cây đứng vững. Chúng là cội rễ tạo ra các hành vi thiện và bất thiện.

Nhân Bất Thiện

Nhân Thiện

Tham (Lobha): Sự mong muốn, dính mắc, là cội rễ của các tâm tham.

Vô Tham (Alobha): Sự không tham muốn, xả ly, là cội rễ của các tâm thiện.

Sân (Dosa): Sự sân hận, bất mãn, là cội rễ của các tâm sân.

Vô Sân (Adosa): Sự không giận hờn, từ ái, là cội rễ của các tâm thiện.

Si (Moha): Sự mê mờ, không hiểu biết, là cội rễ của tất cả các tâm bất thiện.

Vô Si (Amoha): Sự hiểu biết, trí tuệ, là cội rễ của các tâm thiện có trí tuệ.

2.2 Thất Chi Thiền (Jhānaṅga) - Các Yếu Tố Của Sự Tập Trung

Chi Thiền là các yếu tố tâm sở có chức năng thẩm thị, tập trung vào đối tượng và thiêu đốt các pháp đối nghịch. Chúng là thành phần chính trong việc đắc các tầng thiền định.

  • Tầm (Vitakka): Hướng tâm đến đối tượng. Pháp đối nghịch là Hôn Thùy (sự dã dượi của tâm).
  • Tứ (Vicàro): Giữ tâm trên đối tượng, khảo sát đối tượng. Pháp đối nghịch là Hoài Nghi.
  • Hỷ (Pìti): Sự vui thích, hân hoan đối với đối tượng. Pháp đối nghịch là Sân Độc.
  • Nhất Thống (Ekaggatà): Sự hợp nhất của tâm trên một đối tượng duy nhất (định). Pháp đối nghịch là Tham Dục.
  • Hỷ Thọ (Somanassaṃ): Cảm giác vui vẻ, hạnh phúc của tâm.
  • Ưu Thọ (Domanassaṃ): Cảm giác buồn khổ, bất an của tâm.
  • Xả Thọ (Upekkhà): Cảm giác trung tính, bình thản của tâm.

2.3 Thập Nhị Chi Đạo (Maggaṅga) - Các Thành Phần Của Con Đường

Chi Đạo là những pháp làm thành con đường dẫn đến các cõi giới (thiện thú, ác thú) và Níp Bàn.

Chi Đạo

Chi Pháp Tương Ứng

Phân Loại

Chánh Kiến (Sammàdiṭṭhi)

Tâm Sở Trí Tuệ

Bát Chánh Đạo

Chánh Tư Duy (Sammàsaṅkappo)

Tâm Sở Tầm

Bát Chánh Đạo

Chánh Ngữ (Sammàvàcà)

Tâm Sở Chánh Ngữ

Bát Chánh Đạo

Chánh Nghiệp (Sammàkammanto)

Tâm Sở Chánh Nghiệp

Bát Chánh Đạo

Chánh Mạng (Sammàjìvo)

Tâm Sở Chánh Mạng

Bát Chánh Đạo

Chánh Tinh Tấn (Sammàvàyàmo)

Tâm Sở Cần

Bát Chánh Đạo

Chánh Niệm (Sammàsati)

Tâm Sở Niệm

Bát Chánh Đạo

Chánh Định (Sammàsamàdhi)

Tâm Sở Nhất Thống

Bát Chánh Đạo

Tà Kiến (Micchàdiṭṭhi)

Tâm Sở Tà Kiến

Tứ Tà Đạo

Tà Tư Duy (Micchàsaṅkappo)

Tâm Sở Tầm

Tứ Tà Đạo

Tà Tinh Tấn (Micchàvàyàmo)

Tâm Sở Cần

Tứ Tà Đạo

Tà Định (Micchàsamàdhi)

Tâm Sở Nhất Thống

Tứ Tà Đạo

2.4 Nhị Thập Nhị Quyền (Indriya) - Các Năng Lực Chi Phối

Quyền (Indriya) là những pháp có năng lực làm chủ, chi phối trong lĩnh vực hoạt động riêng của chúng, dựa trên câu Chú Giải: "Indanti paramaissariyaṃ karontìti = Indriyàni" (Những thể loại Pháp nào làm thành người chủ quản).

  1. Nhãn Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc trông thấy (Nhãn Thanh Triệt).
  2. Nhĩ Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc nghe (Nhĩ Thanh Triệt).
  3. Tỷ Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc ngửi (Tỷ Thanh Triệt).
  4. Thiệt Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc nếm (Thiệt Thanh Triệt).
  5. Thân Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc xúc chạm (Thân Thanh Triệt).
  6. Nữ Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc hình thành nữ nhân (Sắc Nữ Giới Tính).
  7. Nam Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc hình thành nam nhân (Sắc Nam Giới Tính).
  8. Mạng Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc bảo hộ Danh và Sắc (Tâm Sở Mạng Quyền và Sắc Mạng Quyền).
  9. Ý Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc tiếp thâu cảnh (tất cả các Tâm).
  10. Lạc Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc thụ hưởng sự an lạc về thân (Tâm Sở Thọ).
  11. Khổ Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc thụ hưởng sự đau khổ về thân (Tâm Sở Thọ).
  12. Hỷ Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc thụ hưởng sự an lạc về tâm (Tâm Sở Thọ).
  13. Ưu Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc thụ hưởng sự đau khổ về tâm (Tâm Sở Thọ).
  14. Xả Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc thụ hưởng sự thản nhiên (Tâm Sở Thọ).
  15. Tín Quyền: Pháp làm chủ quản trong sự sùng tín (Tâm Sở Tín).
  16. Tấn Quyền: Pháp làm chủ quản trong sự tinh cần (Tâm Sở Cần).
  17. Niệm Quyền: Pháp làm chủ quản trong sự ghi nhớ (Tâm Sở Niệm).
  18. Định Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc kiên trụ vào một cảnh (Tâm Sở Nhất Thống).
  19. Tuệ Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc liễu tri chân lý (Tâm Sở Trí Tuệ).
  20. Vị Tri Đương Tri Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc liễu tri Tứ Thánh Đế lần đầu (Trí Tuệ trong Tâm Đạo Thất Lai).
  21. Dĩ Tri Quyền: Pháp làm chủ quản trong việc liễu tri Tứ Thánh Đế ở các tầng Đạo Quả sau (Trí Tuệ trong 6 Tâm Siêu Thế).
  22. Cụ Tri Quyền: Pháp làm chủ quản đã liễu tri Tứ Thánh Đế một cách hoàn mãn (Trí Tuệ trong Tâm Quả Vô Sinh).

2.5 Cửu Lực (Bala) - Các Sức Mạnh Tinh Thần

Lực (Bala) là những pháp có năng lực "bất kinh động" (không lay chuyển) khi đối mặt với các pháp đối nghịch. Chúng là những sức mạnh tinh thần giúp hành giả vững bước trên con đường tu tập. Chín Lực bao gồm:

  1. Tín Lực: Sức mạnh của đức tin, không lay chuyển bởi sự bất tín.
  2. Tấn Lực: Sức mạnh của tinh tấn, không lay chuyển bởi sự lười biếng.
  3. Niệm Lực: Sức mạnh của chánh niệm, không lay chuyển bởi sự thất niệm.
  4. Định Lực: Sức mạnh của sự tập trung, không lay chuyển bởi sự phóng dật.
  5. Tuệ Lực: Sức mạnh của trí tuệ, không lay chuyển bởi vô minh.
  6. Tàm Lực: Sức mạnh của sự hổ thẹn tội lỗi, không lay chuyển bởi Vô Tàm.
  7. Quý Lực: Sức mạnh của sự ghê sợ tội lỗi, không lay chuyển bởi Vô Quý.
  8. Vô Tàm Lực: Sức mạnh bất kinh động trong việc không hổ thẹn với ác hạnh.
  9. Vô Quý Lực: Sức mạnh bất kinh động trong việc không ghê sợ ác hạnh.

2.6 Tứ Trưởng (Adhipati) và Tứ Vật Thực (Àhàra)

Hai nhóm pháp cuối cùng trong Tổng Hợp Hỗn Hợp là Tứ Trưởng và Tứ Vật Thực.

  • Tứ Trưởng (Adhipati): Đây là những pháp làm thành "trưởng trội", có vai trò lãnh đạo và chi phối các pháp đồng sinh. Tại một thời điểm, chỉ có một Trưởng có thể xuất hiện.
    1. Dục Trưởng (Chandhàdhipati): Sự duyệt ý, mong muốn làm trưởng trội.
    2. Cần Trưởng (Vìriyàdhipati): Sự tinh cần, nỗ lực làm trưởng trội.
    3. Tâm Trưởng (Cittàdhipati): Tâm làm trưởng trội, chú tâm vào đối tượng.
    4. Thẩm Trưởng (Vìmaṃsàdhipati): Trí tuệ, sự thẩm sát làm trưởng trội.
  • Tứ Vật Thực (Àhàra): Đây là những pháp có chức năng "dắt dẫn" và nuôi dưỡng, hỗ trợ cho sự tồn tại và phát triển của Danh pháp và Sắc pháp.
    1. Đoàn Thực (Kabaḷìkàràhàra): Vật thực vật chất, nuôi dưỡng Sắc pháp.
    2. Xúc Thực (Phassàhàra): Sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng, nuôi dưỡng Thọ.
    3. Ý Tư Thực (Manosañcetanàhàra): Tư tác ý (ý muốn), dắt dẫn đến sự tái tục trong ba cõi.
    4. Thức Thực (Viññàṇàhàra): Thức (Tâm), dắt dẫn và nuôi dưỡng các Tâm sở và Sắc nghiệp đồng sinh.

Sau khi đã phân tích các thành phần riêng lẻ cấu thành nên các trạng thái tâm thiện và bất thiện, bước tiếp theo là xem xét cách chúng được tổ chức và phân loại trong các khuôn khổ triết học lớn hơn. Điều này giúp hành giả có một cái nhìn tổng thể về cấu trúc của thực tại và kinh nghiệm.

3.0 Tổng Hợp Tận Thị (Vutthànagàminì-Vipassanà) - Các Khuôn Khổ Phân Tích Thực Tại

"Tổng Hợp Tận Thị" là phương pháp phân loại toàn bộ các pháp hữu vi (pháp do duyên sinh) thành những nhóm khái niệm để tiện cho việc phân tích và quán chiếu. Mục đích của các khuôn khổ này là giúp hành giả thấy rõ bản chất Vô Thường (Anicca), Khổ (Dukkha), và Vô Ngã (Anatta) của mọi thực tại, từ đó phát sinh trí tuệ và dẫn đến giải thoát.

3.1 Ngũ Uẩn (Pañcakkhandha)

Uẩn (Khandha) có nghĩa là "nhóm" hoặc "khối". Đức Phật phân tích một chúng sinh thành năm nhóm cấu thành, cho thấy không có một "cái tôi" hay "bản ngã" đơn nhất và thường hằng nào.

  1. Sắc Uẩn (Rùpakkhandha): Bao gồm toàn bộ vật chất, gồm 28 loại sắc pháp.
  2. Thọ Uẩn (Vedanàkhandha): Bao gồm tất cả các cảm thọ (lạc, khổ, xả). Chi pháp là Tâm Sở Thọ.
  3. Tưởng Uẩn (Saññakkhandha): Bao gồm sự tri nhận, ghi nhớ các đối tượng. Chi pháp là Tâm Sở Tưởng.
  4. Hành Uẩn (Saṅkhàrakkhandha): Bao gồm 50 tâm sở còn lại (ngoại trừ Thọ và Tưởng), là các yếu tố tạo tác, định hình ý chí và hành vi.
  5. Thức Uẩn (Viññàṇakkhandha): Bao gồm tất cả 89 hoặc 121 loại Tâm, có chức năng biết cảnh.

Sự khác biệt cốt lõi nằm ở 'Thủ' (Upàdàna), tức sự chấp thủ. Ngũ Thủ Uẩn chỉ đề cập đến năm uẩn thuộc thế giới hiệp thế (Dục, Sắc, Vô Sắc), vì chúng là đối tượng của Ái và Kiến. Trong khi đó, thuật ngữ Ngũ Uẩn mang tính bao quát hơn, có thể dùng để chỉ cả các pháp hiệp thế và siêu thế. Các uẩn của Tâm Đạo và Tâm Quả, tuy cũng là danh uẩn, nhưng không phải là đối tượng của chấp thủ, do đó chúng được gọi là uẩn nhưng không phải là thủ uẩn.

3.2 Thập Nhị Xứ (Dvādasa-āyatana)

Xứ (Āyatana) có nghĩa là "cửa ngõ" hoặc "căn cứ" của nhận thức. Mười hai xứ bao gồm sáu căn (nội xứ) và sáu trần (ngoại xứ), là toàn bộ thế giới kinh nghiệm của một chúng sinh.

Lục Nội Xứ (Căn)

Lục Ngoại Xứ (Trần)

Nhãn xứ (Mắt)

Sắc xứ (Hình ảnh, màu sắc)

Nhĩ xứ (Tai)

Thinh xứ (Âm thanh)

Tỷ xứ (Mũi)

Khí xứ (Mùi)

Thiệt xứ (Lưỡi)

Vị xứ (Vị)

Thân xứ (Thân)

Xúc xứ (Sự xúc chạm)

Ý xứ (Ý)

Pháp xứ (Các đối tượng của ý)

3.3 Thập Bát Giới (Aṭṭhārasa Dhātu)

Giới (Dhātu) có nghĩa là "yếu tố" nền tảng, "thể loại" mang giữ thực tính của riêng nó. Phân tích thực tại thành 18 giới nhằm mục đích cho thấy rằng toàn bộ quá trình nhận thức chỉ là sự tương tác của các yếu tố vô ngã, không có một thực thể tự chủ nào đứng sau điều khiển.

  1. Nhãn Giới (Yếu tố mắt)
  2. Sắc Giới (Yếu tố hình sắc)
  3. Nhãn Thức Giới (Yếu tố nhận thức của mắt)
  4. Nhĩ Giới
  5. Thinh Giới
  6. Nhĩ Thức Giới
  7. Tỷ Giới
  8. Khí Giới
  9. Tỷ Thức Giới
  10. Thiệt Giới
  11. Vị Giới
  12. Thiệt Thức Giới
  13. Thân Giới
  14. Xúc Giới
  15. Thân Thức Giới
  16. Ý Giới (Ý căn)
  17. Pháp Giới (Đối tượng của ý)
  18. Ý Thức Giới (Yếu tố nhận thức của ý)

3.4 Tứ Thánh Đế (Cattāri Ariyasaccāni)

Tứ Thánh Đế là bốn sự thật cao cả, là giáo lý nền tảng được Đức Phật thuyết giảng đầu tiên, vạch ra bản chất của khổ đau và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.

  1. Khổ Đế (Dukkhasacca): Sự thật về khổ. Chi pháp là toàn bộ 81 Tâm Hiệp Thế, 51 Tâm Sở (trừ Tham) và 28 Sắc Pháp. Đây là thực tại của sinh, lão, bệnh, tử và mọi dạng khổ đau khác.
  2. Tập Đế (Samudayasacca): Sự thật về nguyên nhân của khổ. Chi pháp là Tâm Sở Tham (Ái Dục), là nguồn gốc của mọi sự bám víu và khổ đau.
  3. Diệt Đế (Nirodhasacca): Sự thật về sự diệt khổ. Chi pháp là Níp Bàn (Nibbāna), trạng thái chấm dứt hoàn toàn Tham, Sân, Si và mọi khổ đau.
  4. Đạo Đế (Maggasacca): Sự thật về con đường dẫn đến diệt khổ. Chi pháp là Bát Chánh Đạo, bao gồm 8 tâm sở hiện hữu trong 4 Tâm Đạo siêu thế.

Sau khi đã phân loại các pháp hữu vi và thấy rõ cấu trúc của thực tại khổ đau, điều quan trọng tiếp theo là phải hiểu được quy luật nhân quả chi phối sự vận hành của chúng. Đó chính là giáo lý Duyên Hệ, sợi dây liên kết toàn bộ các pháp đã được phân tích.

4.0 Duyên Hệ (Paccayasaṅgaha) - Quy Luật Nhân Quả Tương Sinh

Duyên Hệ (Paṭiccasamuppāda), hay Thập Nhị Nhân Duyên, là giáo lý trung tâm giải thích cơ chế vận hành của vòng luân hồi sinh tử (Saṃsāra). Giáo lý này cho thấy rằng không có một tự ngã hay một đấng tạo hóa nào chi phối sự tồn tại của chúng sinh, mà chỉ có một chuỗi các nhân và quả phụ thuộc, nương tựa vào nhau mà sinh khởi và hoại diệt. Sự sinh khởi của toàn bộ khối khổ uẩn là một quá trình tương duyên phức tạp.

4.1 Thập Nhị Nhân Duyên (12 Chi Phần)

Mười hai nhân duyên được trình bày theo dòng chảy thuận (thuận thuyết), cho thấy quá trình sinh khởi của khổ đau:

  1. Vô Minh (Avijjà) duyên cho Hành (Saṅkhàrà): Do không hiểu biết Tứ Thánh Đế, chúng sinh tạo ra các nghiệp (hành) thiện và bất thiện.
  2. Hành (Saṅkhàrà) duyên cho Thức (Viññàṇa): Nghiệp quá khứ tạo ra Thức tái tục trong một kiếp sống mới.
  3. Thức (Viññàṇa) duyên cho Danh Sắc (Nàmarùpa): Thức tái tục làm nền tảng cho sự phát triển của tâm (Danh) và thân (Sắc) trong bào thai.
  4. Danh Sắc (Nàmarùpa) duyên cho Lục Xứ (Saḷàyatana): Từ Danh Sắc, sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) hình thành.
  5. Lục Xứ (Saḷàyatana) duyên cho Xúc (Phasso): Sáu căn tiếp xúc với sáu trần, tạo ra Xúc.
  6. Xúc (Phasso) duyên cho Thọ (Vedanà): Từ Xúc sinh ra các cảm thọ (lạc, khổ, xả).
  7. Thọ (Vedanà) duyên cho Ái Dục (Taṇhà): Từ cảm thọ lạc sinh ra ái, từ cảm thọ khổ sinh ra sự bất mãn (cũng là một dạng ái).
  8. Ái Dục (Taṇhà) duyên cho Chấp Thủ (Upàdànaṃ): Ái dục mãnh liệt trở thành sự bám víu, chấp thủ.
  9. Chấp Thủ (Upàdànaṃ) duyên cho Hữu (Bhavo): Chấp thủ tạo ra nghiệp mới (Nghiệp Hữu) dẫn đến một kiếp sống tương lai (Sinh Hữu).
  10. Hữu (Bhavo) duyên cho Sinh (Jàti): Nghiệp Hữu dẫn đến sự tái sinh trong một cảnh giới mới.
  11. Sinh (Jàti) duyên cho Lão-Tử (Jaràmaraṇa): Có sinh ắt có già, chết, và toàn bộ khối sầu, bi, khổ, ưu, não đi kèm.

4.2 Phân Tích Cấu Trúc Của Duyên Hệ

Mười hai nhân duyên có thể được phân tích theo nhiều cấu trúc khác nhau để làm rõ mối quan hệ nhân quả qua các đời sống.

  • Tam Thời Kỳ (Tayo addhà):
    • Quá Khứ: Vô Minh, Hành (Nhân của đời sống hiện tại).
    • Hiện Tại: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ (Quả của quá khứ) và Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu (Nhân của tương lai).
    • Vị Lai: Sinh, Lão-Tử (Quả của hiện tại).
  • Nhị Thập Hành Tướng (Vìsatàkàrà):
    • 5 Nhân Quá Khứ: Vô Minh, Hành, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu.
    • 5 Quả Hiện Tại: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ.
    • 5 Nhân Hiện Tại: Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu, Vô Minh, Hành.
    • 5 Quả Vị Lai: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ (dưới hình thức Sinh, Lão-Tử).
  • Tam Liên Kết (Tisandhi):
    • Liên kết giữa Hành (Quá khứ)Thức (Hiện tại): Nối giữa nhân quá khứ và quả hiện tại.
    • Liên kết giữa Thọ (Hiện tại)Ái Dục (Hiện tại).
    • Liên kết giữa Hữu (Hiện tại)Sinh (Vị lai): Nối giữa nhân hiện tại và quả vị lai.
  • Tứ Tóm Lược (Catusaṅkhepà):
    • Nhóm 1: Vô Minh, Hành.
    • Nhóm 2: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ.
    • Nhóm 3: Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu.
    • Nhóm 4: Sinh, Lão-Tử.
  • Tam Luân Hồi (Tìṇi vaṭṭàni):
    • Phiền Não Luân (Kilesavaṭṭa): Vô Minh, Ái Dục, Chấp Thủ.
    • Nghiệp Báo Luân (Kammavatta): Hành, Nghiệp Hữu.
    • Dị Thục Quả Luân (Vipàkavaṭṭa): Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Sinh, Lão-Tử.
  • Nhị Căn Nguyên (Dve mùlàni):
    • Vô Minh (Avijjà): Cội rễ của vòng luân hồi từ quá khứ.
    • Ái Dục (Taṇhà): Cội rễ của vòng luân hồi ở hiện tại.

4.3 Dòng Chảy Nghịch Thuyết và Sự Đoạn Diệt

Nếu dòng chảy thuận giải thích sự sinh khởi của khổ đau, thì dòng chảy ngược (nghịch thuyết) chỉ ra con đường đoạn diệt khổ đau. Quy luật này được diễn tả qua công thức: "Avijjàya tveva asesa viràganirodhà saṅkhàranirodho" - "Hẳn thật, Vô Minh tiệt diệt thì Hành diệt".

Khi Vô Minh, cội rễ của toàn bộ vòng luân hồi, được đoạn trừ hoàn toàn bằng trí tuệ, thì mắt xích đầu tiên bị phá vỡ. Sự đoạn diệt của Vô Minh sẽ dẫn đến sự đoạn diệt của Hành. Hành diệt thì Thức diệt, và cứ thế tiếp tục cho đến khi mắt xích cuối cùng là Lão-Tử cũng được đoạn diệt. Đây chính là con đường dẫn đến sự chấm dứt toàn bộ khối khổ uẩn và chứng ngộ Níp Bàn, trạng thái an tịnh, giải thoát tối hậu.

5.0 Kết Luận

Tài liệu này đã trình bày một lộ trình phân tích có hệ thống các khái niệm cốt lõi trong triết học Vô Tỷ Pháp, cho thấy một sự liên kết chặt chẽ và logic giữa các giáo lý. Chúng ta đã thấy rằng các pháp bất thiện chính là nguyên nhân trực tiếp của khổ đau trong vòng luân hồi; các pháp hỗn hợp là những yếu tố động lực cấu thành nên cả tâm thiện và bất thiện; các khuôn khổ phân tích như Uẩn, Xứ, Giới, và Tứ Thánh Đế giúp ta vạch ra một bản đồ chi tiết về cấu trúc của thực tại khổ đau đó; và cuối cùng, Duyên Hệ giải thích quy luật nhân quả tương sinh chi phối toàn bộ sự vận hành của vòng luân hồi.

Sự thấu triệt có hệ thống các khái niệm này không chỉ đơn thuần là một bài tập triết học trừu tượng. Thay vào đó, nó cung cấp cho hành giả một "tấm bản đồ" chính xác về tâm và thế giới, làm nền tảng vững chắc cho việc thực hành thiền định (Thiền Chỉ và Thiền Quán). Bằng cách thấy rõ bản chất Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của các pháp hữu vi, hành giả có thể đoạn trừ Vô Minh, chặt đứt vòng Duyên Hệ, và cuối cùng đạt đến mục tiêu tối hậu: sự giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau.

Nguồn: Abhidhammaṭṭha  Saṅgaha Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp 






Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

Ba Sinh Hương Lửa Tác giả: Doãn Quốc Sỹ

Ba Sinh Hương Lửa Tác giả: Doãn Quốc Sỹ


Trong sách "Quần ngọc chú" có ghi lại chuyện Tỉnh Lang đi chơi chùa Nam Huệ Tự. Ở chùa, Tỉnh Lang nằm chơi một lúc đã ngủ thiếp đi không hay biết gì. Trong giấc ngủ, Tỉnh Lang mơ thấy mình đi chơi Non Bồng.
Ba Sinh Hương Lửa Tác giả: Doãn Quốc Sỹ
Ba Sinh Hương Lửa Tác giả: Doãn Quốc Sỹ

Ở chốn ấy, Tỉnh Lang gặp một ông thầy ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây hương đang cháỵ Do tò mò, Tỉnh Lang bèn hỏi về nguyên do cây hương nàỵ Thầy tăng đáp lại rằng, trước đó đã có một người lên chùa và thắp cây hương này để khấn nguyện, cầu phúc. Nay cây hương vẫn còn cháy mà người ấy đã sinh được ba kiếp rồị Kiếp đầu tiên là vua Huyền Tôn, kiếp thứ hai là vua Hiến Tôn ở đời Đường, và kiếp thứ ba là Tỉnh Lang. Nghe đến tên mình, Tỉnh Lang giật mình tỉnh giấc, lòng nửa tin nửa ngờ. Về sau, điển tích này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và dần dà đã hình thành nên thành ngữ "tam sinh hương lửa" hay "hương lửa ba sinh" để chỉ lời nguyện có hiệu lực đến ba đời người.


Về nguyên do của thành ngữ này, có sách cũng ghi lại nhưng đôi chỗ có khác đi chút ít. Theo "Từ điển truyện Kiều" của cụ Đào Duy Anh thì sách "Truyền đăng lục" chép là: có người mộng thấy một vị lão tăng, trước mặt có tia khói rất nhỏ. Vị tăng nói rằng: "Đó là khói hương của một người đàn việt kết nguyện, người đàn việt đã trải qua ba kiếp mà hương vẫn còn".


Như vậy, tuy các dị bản có khác nhau ở một số chi tiết, nhưng về cơ bản nguồn gốc và con đường hình thành thành ngữ "hương lửa ba sinh" đều thống nhất. Trong tiếng Việt, thành ngữ "hương lửa ba sinh" được dùng để chỉ lời nguyền, lời thề có ứng nghiệm đến ba kiếp, ba đời người.






Đạo Đức Kinh - Lão Tử Theo Bản dịch tiếng Anh của: Stan Rosenthal

Đạo Đức Kinh - Lão Tử Theo Bản dịch tiếng Anh của: Stan Rosenthal

Đạo Đức Kinh - Lão Tử Theo Bản dịch tiếng Anh của: Stan Rosenthal

Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.

Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.

Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không cần phải biện giải [vì hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết.

Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng.
Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.

Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm, cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó [quả cảm, cương cường]?

Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó.Cái có từ cái không mà ra. Không có nghĩa là không có gì cả nhưng phải có cái gì thì mới có cái không có.

Cái gì an định thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình.

Cây lớn một ôm, khởi sinh từ một cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân.
Người ta làm việc , thường gần tới lúc thành công thì lại thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.

Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách vô vi, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn.

Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung.

Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].
Khoảng giữa trời đất như cái ống hơi; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.

Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường.

Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà ko cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.

Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Vì vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư ?

Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất.

Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gì gợi ham muốn, để lòng dân không loạn.
Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương cốt thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn mà bọn mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị.

Không học thì không phải lo. Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, vô vi càng tăng.

Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.

Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn cứu ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.

Người sáng suốt nghe đạo thì gắng sức mà thi hành, người bình thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?

Nước là vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực kì mềm mại, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được.

Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Ráng giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại không bén lâu.
Vàng ngọc đầy nhà, làm sao mà giữ nổi ? Giàu sang mà kiêu căng là tự rước họa vào thân.

Ba mươi nan hoa cùng qui vào 1 cái bánh, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được.
Vậy ta tưởng cái "có" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "không" mới làm cho cái "có" hữu ích.

Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh ra rối loạn ? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra rối loạn nữa ?!
Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.

Ai có thể đang đục mà lắng xuống để từ từ trong ra ? Ai có thể đang hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên ? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được.

Kẻ đứng 1 chân thì không thể đứng được lâu, kẻ xoạc chân ra thì không thể đi được, kẻ tự biểu hiện mình thì không bao giờ chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường cửu. Thái độ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai ai cũng ghét.

Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó mà phát sinh ra quan niệm cái xấu; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác. Tại sao con người thích cái đẹp mà lại không thích cái xấu ? Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại ...

Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu; kẻ gắng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ.

Hồn nhiên, vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt như vậy không phải là dễ. Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.

Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt trí xảo bỏ lợi, không có trộm giặc.

Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ bề ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự giản phác, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.

Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Việc học rộng lớn thay, không sao hết được.

Mọi người hớn hở như hường bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết cười, rũ rượi mà đi như không có nhà để về. Mọi người có thừa, riêng ta như thiếu thốn, lòng ta ngu muội, đần độn thay ! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo)

Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở lại cái bản thể của nó (trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được bản chất vạn vật ? Đó là do đạo.

Thánh nhân ôm giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.

Người xưa bảo: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.

Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi suốt buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người ?

Vì binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không dùng binh khí. Bất đắc dĩ phải dùng đến nó, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không trị được thiên hạ.

Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.






Đạo Đức Kinh (bản dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê)
https://drive.google.com/file/d/1N1p73uW6Y5tllbIKDm1LZytdHX3FDRJK/view?usp=sharing

XEM THÊM:

Mâu thuẫn tôn giáo Do Thái giáo VS Kito giáo VS Hồi giáo.
ıạl ɔợưƃu ĩɥƃu và làm khác đi.
Khung Cửa Hẹp tác giả Andre Gide.
Quê hương những đêm chờ sáng tác giả Tiến sĩ Alan ....
Hỏi đáp về ma quỷ (phi nhân) trong phật giáo.
Mật Mã Tây Tạng Tác Giả Hà Mã trọn bộ 10 tập.
Totto Chan Cô bé bên cửa sổ tác giả Tetsuko Kuroyanagi.
Nói với tuổi 20 tác giả Thích Nhất Hạnh.
Nửa kia của Hitler tác giả Eric Emmanuel Schumitt.
Quảy Gánh Băng Đồng Ra Thế Giới tác.
Phía sau nghi can X tác giả Higashino Keigo.
Những cuộc phiêu lưu của Mít đặc và các bạn tác giả ....
Tuyển tập Toại Khanh- Sư Giác Nguyên.
LÃNG MINH:Chuyện Phiếm Thầy Tu Sư Toại Khanh.
Tỳ Khưu Chơn Tín.
NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG KỲ LẠ - TÁC GIẢ ....
Phanblogs Nửa đời trước của tôi tự truyện của Ái Tân Giác La Phổ
Danh sách 50 cuốn sách cần đọc dịch giả Thái bá tân.
Thích nhất hạnh ebook.
1Q84 Haruki Murakami.
hachiko chú chó đợi tác giả luis prats.
THE SYMPATHIZER (CẢM TÌNH VIÊN) TÁC GIẢ ....
Pippi Tất Dài tác giả Astrid Lindgren.
Chuyện con mèo dạy hải âu bay tác giả Luis Sepúlveda.
NGƯỜI BÁN HÀNG VĨ ĐẠI NHẤT THẾ GIỚI TÁC GIẢ OG ....
Hương rừng Cà Mau tác giả Sơn Nam.
ĐOẠN NÀO BUỒN TA BỎ BỚT CHO VUI.
Một ngày của Ivan Denisovich Aleksandr Solzenisyn.
Chiếc áo lặn và con bướm tác giả Jean Dominique Bauby.
Hỏi đáp về ma quỷ (phi nhân) trong phật giáo.