Search

2.5.12

Hai số Phận Jeffrey Archer


Hai số phận tưởng như dính với nhau một cách tình cờ, nhưng có lẽ trò chơi của tạo hóa đã được sắp sẵn. Mọi toan tính sống sót và tiền bạc đều trở nên vô nghĩa khi có được nó trong tay
Phanblogs Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là: Kane and Abel) là một cuốn tiểu thuyết được sáng tác vào năm 1979 bởi nhà văn người Anh Jeffrey Archer. Tựa đề Kane and Abel dựa theo câu chuyện của anh em: Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước.


Hai số Phận Jeffrey Archer.doc


Hai số Phận Jeffrey Archer.pdf

Cuốn sách là một câu chuyện kể về hai người có số phận khác nhau. Họ không có điểm gì giống nhau cả ngoại trừ việc họ sinh ra vào cùng một thời điểm (18/04/1906) và có một lòng quyết tâm để đạt được thành công trong cuộc sống. William Lowell Kane là một người mạnh mẽ và giàu có trong khi đó Abel Rosnovski (tên ban đầu là Wladek Koskiewicz) là một người gốc Ba Lan phải đấu tranh từ lúc sinh ra và lớn lên cùng với những người nghèo khổ, cuối cùng di cư đến Hoa Kỳ.

William tiếp nối sự nghiệp của cha mình là Richard Kane, để trở thành một chủ ngân hàng thành công. Trong khi William vẫn còn là một đứa trẻ, cha của anh đã chết trong thảm họa tàu Titanic. Người cha mất đi đã biến anh trở thành người thừa kế của ngân hàng Kane & Cabot. William đã thể hiện là một con người có tính kỷ luật và thông minh như những học sinh khác của trường St. Paul's School và sau đó là ở Harvard. Mẹ của anh đã tái hôn với Henry Osborne, hắn ta chỉ là một kẻ ham mê cờ bạc và phụ nữ. William ghét Henry kể từ lần đầu tiên tiếp xúc với hắn, do vậy anh dành phần lớn thời gian sống ở Harvard và gia đình người bạn thân của mình là Mathew Lester. William có ước mơ trở thành chủ tịch của ngân hàng Lester vào một ngày nào đó. Trong khi mẹ của anh vừa bị chết vì đẻ non thì Henry đã lấy đi những đồng tiền cuối cùng trong phần thừa kế của mẹ anh. William đã đuổi Henry ra khỏi nhà.

Wladek Koskiewicz được sinh ra trong một khu rừng già bên cạnh xác người mẹ đã chết của mình và anh được gia đình của người gài bẫy thú đón về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên thì anh đã thể hiện là một cậu bé có trí thông minh vượt trội. Baron Rosnovski muốn anh cùng học với con trai của ông là Leon, bởi Wladek sẽ là động lực cạnh tranh giúp con trai ông học tập tốt hơn. Wladek đồng ý đến lâu đài của Baron với điều kiện là anh ta có thể mang theo người chị lớn là Florentyna, người chị rất mực thương yêu Wladek. Sau đó ít lâu, thế chiến thứ nhất diễn ra và Đức tấn công Ba Lan. Quân Đức bắt Baron, người làm và con trai của ông chủ lâu đài này. Leon đã trở thành bạn của Wladek nhưng đã bị một tên lính giết chết. Trước khi chết, Baron trao cho anh chiếc vòng bạc có khắc chữ: "Nam tước Abel Rosnovski". Wladek thực sự nhận ra Baron là cha của mình người mà anh đang tìm kiếm bấy lâu bởi vì cũng giống như anh, Baron cũng thiếu một núm vú. Wladek đã phải chứng kiến người chị gái lớn Florentyna bị những tên lính Nga cưỡng hiếp và giết chết, khi đó người chị của anh còn rất trẻ.

Wladek bị chuyển từ nơi anh đang bị quản lý đến Siberia, và rồi đến Thổ Nhĩ Kỳ sau khi phải đối mặt với nhiều khó khăn và gian khổ. Ở đó, anh bị suýt bị mất gần một bàn tay (một hình phạt phổ biến ở Trung Đông) vì trộm cắp nhưng có sự can thiệp của hai nhà ngoại giao người Anh nên thoát được. Họ chuyển anh đến lãnh sự quán Ba Lan, từ đó với sự giúp đỡ của họ, anh di cư sang Hoa Kỳ và đổi tên là Abel Rosnovski.

Anh bắt đầu cuộc sống bằng việc làm phục vụ bàn trong khách sạn Plaza, đồng thời tham gia lớp học ban đêm về kinh doanh tại Đại học Columbia. Trong lúc Abel đang làm việc đó, Davis LeRoy là chủ sở hữu của nhóm các khách sạn Richmond, đã rất ấn tượng về cách làm việc của anh ta nên ông ta đã mời anh về quản lý khách sạn cho mình. Abel thay đổi cách quản lý yếu kém của khách sạn bằng cách quản lý mới nhằm thu lợi nhuận và anh cũng mua cổ phiếu trong hệ thống khác sạn cho mình là 25%. Trong thời kỳ khó khăn nhất, khách sạn mắc nợ ngân hàng và Davis không thể tìm thấy cách tháo gỡ. Trong bản di chúc để lại trước tự tử, Davis dành số còn lại cổ phần trong tập đoàn Richmond cho Abel. Trước khi tự tử trong bản di chúc, Davis có nhắc đến rằng ngân hàng Kane & Cabot đã không hỗ trợ ông ta khi khách sạn gặp khó khăn. Abel biết như vậy, anh đã bắt đầu lập kế hoạch cho việc trả thù Kane người chủ của ngân hàng Kane & Cabot. Anh cho người theo dõi các hoạt đọng của ngân hàng Kane & Cabot. Sau đó Abel làm quản lý cho David Maxton, chủ sở hữu của khách sạn Stevens. Trong thời gian này, Abel đã kết hôn với Zaphia, cả hai đều nói được tiếng Ba Lan.

Abel đã đổi tên khách sạn từ Richmond thành Baron và xây dựng thành công chuỗi khách sạn. Bằng cách cộng tác với Henry Osborne, người mà bằng cách nào đó đã gia nhập vào lĩnh vực chính trị, Abel đã có kế hoạch trả thù Kane và các ngân hàng Kane & Cabot. Abel sinh ra một cô con gái, đặt tên Florentyna để nhớ về người chị đã mất của mình. Trong khi đó, Kane sinh ra một cậu con trai, đặt tên là Richard. Trong Chiến tranh Thế giới thứ II Abel sống ở Pháp và luôn nhớ về mối thù với Kane. Khi anh trở về nhà từ chiến tranh, biết không thể chung sống được với nhau nên anh và Zaphia quyết định ly hôn.

Trong khi đó ngân hàng của Kane và Lester đã hợp nhất thành một ngân hàng và có một điều khoản là bất kỳ người nào chiếm 8% tổng số cổ phần có thể triệu tập cuộc họp hội đồng. Abel đã cố gắng để có được 8% của các cổ phiếu của ngân hàng, nhưng Kane bằng nỗ lực quản lý của mình đã không để cho Abel thực hiện được ý định đó. Kane và Abel, họ vô tình gặp nhau nhiều lần trong suốt cả câu chuyện.

Florentyna Rosnovski và Richard Kane đã gặp nhau và yêu nhau mà không hề biết về mối thù giữa hai người cha của họ. Florentyna và Richard Kane lấy nhau và đề nghị hai ông bố của mình hãy giảng hòa. Họ sống riêng với những người cha và bắt đầu xây dựng một chuỗi các cửa hàng boutique lấy tên của Florentyna.

Cuối cùng, Abel đã thực hiện thành công để có được đủ số cổ phần của ngân hàng và đuổi Kane ra khỏi ngân hàng. Kane quyết định tha thứ cho con trai và con dâu và hiện ông muốn gặp gỡ họ. Ông đã chết trước khi ông có thể nhìn thấy chúng và cháu ngoại của ông. Abel sau đó biết rằng người giúp đỡ mình thành công như ngày hôm nay không phải là David Maxton mà là William Kane. Lúc đó Kane không còn nữa, lòng đầy ân hận, ông đã giảng hòa với người con gái và con rể. Ngay sau khi chết, Abel đã để lại tất cả mọi thứ của mình cho con gái Florentyna, ngoại trừ chiếc vòng bạc có khắc chữ :"Nam tước Abel Rosnovski" là ông để lại cho cháu ngoại của mình. Những câu cuối cùng của cuốn chuyện mà người đọc có thể thấy là Florentyna và Richard đặt tên con trai của họ là gộp của hai tên Abel và William, tạo nên tên đầy đủ là William Abel Kane.Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là: Kane and Abel) là một cuốn tiểu thuyết được sáng tác vào năm 1979 bởi nhà văn người Anh Jeffrey Archer. Tựa đề Kane and Abel dựa theo câu chuyện của anh em: Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước.

Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980, cuốn sách phổ biến thành công trên thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của tờ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS với tên là Kane & Abel bắt đầu với Peter Strauss vai Rosnovski và Sam Neill vai Kane.

21.4.12

An cung ngưu hoàng



PhanblogsViên ACNHH, viên thuốc mà gần đây được nhắc đến rất nhiều như là thần dược trong điều trị Tai biến mạch máu não (trúng phong - theo YHCT).
Nhiều thông tin đưa đến tai người tiêu dùng phóng đại sự thần kỳ của nó làm cho người ta đổ xô đi tìm mua.
Bài viết sau (chỉ khái quát) sẽ giúp cho mọi người tự đánh giá đúng mức về thực chất của loại thuốc này.
An cung ngưu hoàng
An cung ngưu hoàng
 ACNHH có xuất xứ từ Trung Quốc, nổi tiếng nhất là "Bắc Kinh Đồng Nhân Đường" với lượng tiêu thụ hàng năm lên đến hàng triệu viên.
Thành phần thuốc gồm các vị thuốc theo tỉ lệ như sau:
Ngưu hoàng 4
Xạ hương 1
Uất kim 4
Hùng hoàng 4
Băng phiến 1
Trân châu 2
Chu sa 4
Tê giác 4
Hoàng cầm 4
Hoàng liên 4
Sơn chi 4
Chiếm phần lớn là thành phần có xuất sứ từ khoáng chất và động vật (Tuy nhiên khi quảg cao người ta hay dùng từ "nguồn gốc thảo dược" tạo cảm giác an toàn cho dễ đi vào lòng người)
Phân tich bài thuốc như sau:
-Ngưu hoàng (là sỏi trong túi mật của con trâu): thanh tâm giải độc, hóa đờm khai khiếu.
-Tê giác (sừng tê) thanh tâm lương huyết giải độc.
- Xạ hương (1 chất được tiết ra từ tuyến nội tiết của con cầy hương đực) có td khai khiếu an thần, thông khiếu, thông kinh lạc, hành khí mạnh.
- Hùng hoàng (có thành phần chính là Sufur Thạch tín ( Arsenic sufide) (AsS hay As2S2) ngoài ra có các muối kim loại nặng.) theo đông y, nó có tác dụng giải độc sát trùng, hóa ứ tiêu thủng, táo thấp khu đàm, triệt ngược định kinh. Chủ trị các chứng: ung thư, đinh nhọt ghẻ lở, trùng độc rắn cắn, giang mai ( mai độc), phong hủi, trùng tích bụng, bụng đau, hen suyễn, sốt rét, động kinh, uốn ván ( phá thương phong).
- Uất kim (Là nhánh củ nghệ): có công dụng hoạt huyết, hành khí, lương huyết, phá ứ, giải uất
- Băng phiến (là một hydôcarbn ở thể rắn, tinh thể màu trắng - mchiết suất từ nhựa long não) có td Khai khiếu và tỉnh thần. Thanh nhiệt, giảm đau
- Chu sa (Thành phần chính là sulfua thuỷ ngân (HgS), rất độc) được dùng trong đông y với công dụng trấn kinh an thần.
- Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử (là thảo mộc) tthanh tâm, tả tâm hỏa, thanh nhiệt độc.
.
Như vậy, với thành phần bài thuốc được phân tích ở trên, bài thuốc ACNHH có tác dụng:
Hành khí hoạt huyết, thanh nhiệt, giải độc, khu đàm, khai khiếu tỉnh thần.
Bài thuốc có tác dụng điều trị chứng "Trúng phong" theo trong YHCT.
Chứng trúng phong được YHCT miêu tả như sau:
"Trúng phong là trạng thái đột nhiên bất tỉnh, đồng thời có thể xuất hiện liệt nửa người, mắt lệch, miệng méo, lưỡi cứng, nói khó hoặc không nói được … Thường gặp nơi những người hư yếu, người cao tuổi, huyết áp cao… "
Chứng trạng này rất phù hợp với "Tai biến mạch mãu não" nói chung.
Nhưng "TBMMN" bản thân nó có 2 dạng:
- Xuất huyết não
- Nhồi máu não
2 dạng TBMMN này biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng (tức là nhìn và khám bằng mắt thường) rất khó phân biệt, phải là người có kiến thức chuyên môn sâu mới có thể khảng định.
*Thực tế,với tính dược của viên ACNHH, chỉ có thể được phép chỉ định cho trường hợp TBMMN thể nhồi máu não.
Đối với xuất huyết não, tuy thuốc có tính thiên về hàn, nhưng với tác dụng hoạt huyết, hành khí khá mạnh nó có thể làm cho xuất huyết nặng thêm (chưa có nghiên cứu nào để phủ nhận điều này, vì vậy không thể bỏ qua)
Như vậy, với cách hiểu và dùng ACNHH như đa số hiện nay là rất vu vơ và rất không an toàn.
Tuy vậy, nếu được chẩn đoán chính xác thể bẹnh thì dùng ACNHH là hoàn toàn có lý (mặc dù tôi cũng đã tìm mỏi mắt nhưng không thấy có tài liệu nào thống kê nghiên cứu 1 cách khoa học về công dụng của thuốc này)


Hiện trên thị trường đông dược nước ta có một loại thuốc đang được quảng bá rộng rãi và bán với giá khá đắt là An cung ngưu hoàng hoàn (ACNHH). Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng, do nhiều lý do khác nhau, việc nắm vững công dụng, chỉ định và cách dùng cụ thể chế phẩm này còn không ít khiếm khuyết.

ACNHH là gì?

Là phương thuốc do danh y Ngô Đường, tự Cúc Thông, người đời Thanh (Trung Quốc), đại biểu trọng yếu của học phái ôn bệnh, sáng chế, được ghi trong sách “Ôn bệnh điều biện” nổi tiếng của ông với thành phần gồm: ngưu hoàng 1 lạng, uất kim 1 lạng, tê giác 1 lạng, hoàng cầm 1 lạng, hoàng liên 1 lạng, hùng hoàng 1 lạng, sơn chi 1 lạng, chu sa 1 lạng, mai phiến 2 tiền 5 phân, xạ hương 2 tiền 5 phân, trân châu 5 tiền. Tất cả tán bột thật mịn, dùng mật làm hoàn, mỗi hoàn 1 tiền, lấy vàng lá làm áo, bao sáp. Hiện nay, vì tê giác rất hiếm nên được thay bằng thủy ngưu giác (sừng trâu nước).


Công dụng của ACNHH ra sao?

Theo dược học cổ truyền, ACNHH có công dụng thanh nhiệt giải độc, trấn kinh khai khiếu, dục đàm. Chuyên trị ôn nhiệt bệnh, nhiệt tà nội hãm tâm bào, đàm nhiệt ủng bế tâm khiếu dẫn đến sốt cao phiền táo, thần hôn thiềm ngữ (hôn mê, rối loạn ngôn ngữ) hoặc thiệt kiển chi quyết (lưỡi rụt, tay chân giá lạnh), trúng phong khiếu bế, tiểu nhi kinh quyết thuộc đàm nhiệt nội bế.

Đây là một trong ba phương thuốc lương khai trọng yếu (lương khai tam bảo hay ôn bệnh tam bảo) cùng với chí bảo đan và tử tuyết đan, là một trong những dược vật cấp cứu hữu hiệu của Y học cổ truyền. “Cung” là chỉ tâm bào, tâm bào là cái màng ở ngoài bọc lấy tim; ôn nhiệt độc tà nội hãm, khi xâm phạm vào tâm, trước hết là tác động đến tâm bào. Nếu nhiệt tà quá thịnh sẽ làm nhiễu loạn thần minh mà dẫn đến tình trạng thần hôn thiềm ngữ. ACNHH có đủ khả năng thanh hóa đàm nhiệt nội hãm tâm bào, nhiệt thanh đàm hóa thì tâm thần tất an, vì thế mà gọi là “an cung”.

Trong phương, ngưu hoàng, tê giác và xạ hương có công dụng thanh tâm tả hỏa giải độc, dục đàm khai khiếu, tức phong định kính, là quân dược; hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi thanh nhiệt tả hỏa giải độc; uất kim tán tà hỏa; mai phiến phương hương khứ uế, thông khai bế; chu sa, trân châu và vàng lá trấn tâm an thần; mật ong hòa vị điều trung.

Tác dụng dược lý của ACNHH là gì?

Tác dụng trấn tĩnh và chống co giật

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, ACNHH khi cho chuột uống hoặc tiêm vào trong ổ bụng đều làm cho chúng giảm thiểu hoạt động tự chủ, xuất hiện hiện tượng yên tĩnh, làm tăng tác dụng ức chế hệ thống thần kinh trung ương và kéo dài thời gian gây ngủ của phenobarbital và pentothal. ACNHH còn chống tác dụng hưng phấn và gây co giật của amphetamin và làm giảm thấp tỷ lệ tử vong do thuốc này gây nên.

Tác dụng hồi tỉnh

Khi tiêm vào ổ bụng của chuột bạch 0,8 - 1ml thanh khai chú xạ dịch, một chế phẩm của ACNHH, liên tục trong 5 ngày, nhận thấy hoạt tính của acetylcholin esterase trong nhân lục (locus cerulerus) gia tăng, chứng tỏ hoạt tính của acetylcholin trong nhân lục có thể kích phát hoạt tính của catecholamine trong các neuron, làm hồi phục công năng hướng tâm của cấu trúc lưới trong chất não, từ đó đạt được tác dụng hồi tỉnh. Nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chứng minh tác dụng bảo vệ tế bào gan khỏi sự tác động bất lợi của carbon tetrachloride, làm hồi tỉnh hôn mê gan do nhiễm độc.

Tác dụng giải nhiệt

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh ACNHH có tác dụng làm hạ thấp thân nhiệt của thỏ được gây sốt bằng độc tố của vi khuẩn, tác dụng kéo dài từ 5 - 6 giờ, so với nhóm chứng có sự khác biệt rõ rệt. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh tác dụng giải nhiệt của ACNHH trong các trường hợp sốt do tiêm vắc-xin tam liên, thông thường sau khi tiêm vắc-xin chừng 60 phút thân nhiệt tăng cao, dùng ACNHH có thể làm cho thân nhiệt giảm rất nhanh.

Tác dụng chống viêm tiêu thũng

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chứng minh tác dụng rõ rệt của ACNHH đối với tình trạng viêm khớp ở chuột. Trên mô hình gây viêm tai chuột bằng dinathylbenzene, ACNHH tỏ ra có tác dụng ức chế rõ rệt quá trình viêm. ACNHH còn có tác dụng kích thích khả năng thực bào của đại thực bào, làm tăng chỉ số và tỷ lệ % thực bào, làm cho đại thực bào to ra và gia tăng số lượng các túi thực bào.

Tác dụng đối với hệ tim mạch

Kết quả nghiên cứu cho thấy, ACNHH có tác dụng làm hạ huyết áp trên động vật thí nghiệm từ 5,4 - 7,5 kPa. Trên tim thỏ cô lập, ACNHH có khả năng ức chế sức co bóp cơ tim và làm giảm tần số tim. Trên chó gây mê, ACNHH làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp nhưng lưu lượng động mạch vành và sức bóp cơ tim lại gia tăng. Chứng tỏ thuốc có khả năng cải thiện công năng tim. Ngoài ra, ACNHH còn có tác dụng làm giảm lượng oxy tiêu thụ cơ tim, kéo dài thời gian sống của động vật thí nghiệm trong điều kiện thiếu oxy.

Cần cẩn trọng khi sử dụng ACNHH

Có thể thấy, ACNHH là một trong những loại thuốc rất quý của Y học cổ truyền. Tuy nhiên, khi sử dụng sản phẩm này cần hết sức lưu ý mấy điểm như sau:

- Đây là một loại thuốc “bệnh” của Đông y có sức công phá mãnh liệt, chứ hoàn toàn không phải là loại dược phẩm có công dụng “bồi bổ” như nhiều người lầm tưởng. Vậy nên, khi dùng nhất thiết phải được các thầy thuốc chuyên khoa thăm khám, chỉ định và hướng dẫn tỉ mỉ, tuyệt đối không được tự ý sử dụng.

- Trên thị trường hiện nay, có khá nhiều loại ACNHH khác nhau, nguồn gốc phức tạp, thật - giả lẫn lộn và giá cả cũng hết sức đa dạng, thậm chí có nơi bán “chui” với giá cực đắt! Tình trạng mua phải của “rởm” để rồi lâm vào tình trạng “tiền mất tật mang” không phải là hiếm. Vậy nên, khi có nhu cầu sử dụng, người tiêu dùng nên mua ACNHH ở những cơ sở kinh doanh có đủ giấy tờ và tư cách pháp nhân.

- Vì tê giác hiện tại hết sức quý hiếm và đã được đưa vào sách đỏ cấm săn bắt và tàng trữ nên trong thành phần ACNHH người ta thường dùng sừng trâu nước (thủy ngưu giác) để thay thế với liều lượng cao hơn. Điều này không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của thuốc, vì vậy người tiêu dùng có thể yên tâm sử dụng và đừng vì những lời dẫn dụ như “sản phẩm của chúng tôi được bào chế từ tê giác xịn” mà tốn tiền một cách vô ích.

Tai biến mạch máu não, xuất huyết não (còn gọi là Đột quỵ) là nguyên nhân đứng hàng thứ ba dẫn đến tử vong và là nguyên nhân quan trọng gây tàn tật ở VN. Mỗi năm có khoảng 600.000 người mới mắc và tái phát đột quỵ, trong đó 260.000 người tử vong. Hiện nay việc tổ chức đơn vị chống đột qụy và điều trị cấp cứu ngày càng tốt đã giúp bệnh nhân sống sót nhiều hơn và sống lâu hơn, nhưng nếu mức độ tàn phế không giảm thì đó cũng là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Đột quỵ thường xảy ra do bệnh tăng huyết áp (chiếm tỷ lệ 80%), xơ vữa động mạch (XVĐM) 18-25%, các bệnh khác (5%).Theo điều tra của Tổ chức Y t ế Thê giới, đột quy là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Tai 2/3 số quốc gia được khảo sát, tai biến này là 1 trong 3 nguyên nhân gây tử vong cao nhất. Nếu phát hiện và điều tri sớm, bệnh nhân sẽ được cứu sông và tránh những di chứng nặng nề
Đột quy (còn gọi là tai biến mạch máu não, xuất huyết não) là tình trạng rối loạn chức năng thần kinh như hôn mê, liệt nửa nguời, nói dở, nuốt bi sặc... Các biểu hiện này xuất hiện nhanh, đột ngột, thuờng tồn tại trên 24 giờ. Dựa vào tiến triển của bệnh trong 2-3 tuần đầu, giới chuyên môn chia đột quy thành 5 loại:
- Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua: Khỏi hoàn toàn truớc 24 giờ. Về sau, bệnh nhân có thể bị tai biến mạch máu não thực sự nếu không quan tâm đến việc điều tri và phòng ngừa.
- Thiếu máu não có hồi phục: Khỏi hoàn toàn sau 24 giò bị liệt.
- Khỏi một phần và di chứng kéo dài.
- Không hồi phuc hoặc nặng lên liên tục.
- Diễn tiến đến tử vong.
Trong vòng vài giờ sau khi tai biến mạch máu não xảy ra, các triệu chứng đột ngột xuất hiện:
- Yếu liệt hoặc tê rần ở vùng mặt, tay hoặc chân, đặc biệt là một bên cơ thể, chi một tay hoặc một chân.
- Lú lẫn, rố loạn lời nói hoặc hiểu biết (khó tìm từ hoặc không hiểu từ; nói líu ríu, lắp bắp).
- Không nhìn thấy ở một hay cả hai mắt, hoặc nhin một hóa hai.
- Khó khăn khi bước đi, ứât thâng bằng, chóng mặt hoặc khó phối hợp các động tác.
- Nhức đầu dữ dội mà không biết nguyên nhân. Suy giảm ý thức nhanh chóng. Mất thăng bàng, chóng mặt, nôn, kèm theo nhức đầu.
Trong một số trường hợp, người bệnh vẫn còn tỉnh táo, nhưng đa số bi giảm sút tri giác (như lơ mơ, ngủ gật, có thể hôn mê). Bệnh nhân có thể liệt nửa người, liệt mặt và các cơ hầu họng (gây nuốt khó, sặc khi ăn uống, nói khó), tiểu tiện không tự chủ.
Khi xuất hiện các triệu chúng đột quỵ, người nhà bệnh nhân nên thực hiện 3 việc:
- Liên hệ với trung tâm cấp cứu hoặc bệnh viện gần nhất, nơi có trang bị phương tiện điều tri tai biến mạch máu não.
- Trấn an bệnh nhân.
- Theo dõi thường xuyên tri giác và tình trạng liệt của bệnh nhân.
Đa số bệnh nhân và gia đình không nhận biết được cơn đột quy đang xảy ra, hoặc không biết là cần cấp cứu ngay khi bệnh khởi phát. Do đó, họ mất nhiều thời gian cho những phương pứap dân gian như cạo gió, cất lễ... Những việc này chẳng những không có tác dụng gi mà còn làm giảm cơ hội chữa khỏi cho bệnh nhân.
Khả năng điều tri tai biến mạch máu não rát hạn chế, khó khăn và tốn kém. Các thuốc làm tan cục máu đông có thể khắc phục tình trạng tắc nghẽn mạch máu ở tim và ở não khi cơn đột quy mới xuất hiện nhưng giá lại rất đắt (gần 20 triệu đồng /mũi). Bệnh nhân dùng thuốc này phải được theo dõi bằng các kỹ thuật hiện đại và tôn kém như chụp SPECT hoặc MRI có tiêm thuốc cản quang.
đột quỵ thiếu máu não cấp là bệnh lý khẩn cấp . Để cứu tế bào não cần đựơc điều trị tích cực, khẩn trương đặc biệt trong vòng 3 giờ đầu khởi phát bệnh.
Khi nhập viện, bệnh nhân sẽ được nhanh chóng đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng về sinh hóa, huyết học, đo điện tim ; chụp CT San não hoặc MRI não ( chụp cắt lớp điện toán hoặc chụp cộng hưởng từ ). Đây là thời gian cửa sổ để có thể can thiệp có hiệu quả thuốc tiêu sợi huyết rtPA- loại thuốc mới đã đựơc FDA (Mỹ) công nhận có tác dụng trong trị liệu đột quỵ thiếu máu não cấp trong 3 giờ đầu.
Đây cũng là hướng điều trị mới vừa được áp dụng tại VN cho bệnh nhân đột quỵ. Việc can thiệp bằng rtPA giúp ngăn chặn tiến triển của bệnh , làm tan cục máu đông phòng ngừa di chứng tàn phế và tử vong cho người bệnh. Tuy nhiên, chi phí loại thuốc này vẫn còn khá cao.
Kết quả dùng thuốc rtPA cho một số bệnh nhân cho thấy triệu chứng yếu liệt cải thiện tốt ngay trong 24 giờ đầu, hầu hết phục hồi hoàn toàn khi xuất viện. Thời gian nằm viện rút ngắn từ 6-13 ngày.
Nguyên tắc điều trị đột quị
Xử lý cấp cứu càng nhanh càng tốt để ngăn chặn cơn đột quị, Việc cấp cứu sớm có ý nghĩa rất quan trọng do trong vài giờ đầu mới xảy ra đột quị thường có nhiều biến chứng đe dọa tính mạng BN nhưng có thể phòng ngừa hay điều trị được
-An thần: tức là làm giảm hưng phấn các tế bào não, từ đó làm giảm lượng oxy tiêu thụ
-Khai khiếu thông mạch: làm cho các mạch máu não thư dãn, dãn ra cục máu đông thoát đi được, có một sốbệnh viện trên thế giới dùng biện pháp nong mạch hoặc giải phẫu
-Hoạt huyết tiêu ứ: Dùng thuốc hoạt huyết tiêu ứ để tiêu trừ những huyết khối, những mảng xơ vữa trong cơ thể.Tai biến mạch máu não (TBMMN) một bệnh lý gây ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia đình. Để góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong, rút ngắn giai đoạn cấp tính, hạn chế di chứng của bệnh các thầy thuốc thường dùng đến một số loại thuốc để can thiệp. Một trong những thuốc thường dùng là an cung ngưu hoàng hoàn và cerebrolysin. Cerebrolysin có tác dụng tăng cải thiện chuyển hóa của các tế bào thần kinh, tăng biệt hóa tế bào thần kinh, đảm bảo chức năng thần kinh và bảo vệ tế bào não, tránh khỏi tổn thương do thiếu máu và nhiễm độc gây ra; giảm các gốc tự do, tăng hiệu quả sử dụng ôxy trong tế bào thần kinh, có tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh, tác động trên hàng rào máu não, tác dụng cho các trường hợp thiếu ôxy ở tế bào thần kinh (đột quỵ thiếu máu não) và cải thiện hành vi và khả năng học tập... Thuốc được chỉ định cho các trường hợp đột quỵ và phục hồi chức năng sau đột quỵ; chấn thương sọ não và phục hồi sau chấn thương não; sa sút trí tuệ do bệnh mạch não; bệnh Alzheimer.
Giới thiệu:An cung ngưu hoàng-Thần dược cho người xuất huyết não ,tai biến mạch máu não
Trong vài năm gần đây, ở Việt Nam những người bị trúng phong thường được gia đình và các thầy thuốc cho dùng viên An cung ngưu hoàng hoàn (AC) của Trung Quốc để cấp cứu và điều trị. Tôi cũng đã chứng kiến một sô bệnh nhân bị đột quỵ do cao huyết áp điều trị tại Trung tâm đột quỵ BVTƯQĐ 108. Tình trạng của các bệnh nhân rất nặng nề do chảy máu não. Theo đánh giá của BS điều trị là “đã mất 60%-70% não nên khó tiên lượng”. Sau đó bệnh nhân đã được cho dùng 3 viên AC kết hợp với các thuốc của BV, tình trạng chuyển biến tốt rõ rệt. Các bệnh nhân ra viện, hồi phục sức khỏe tốt, hiện còn sống
-Theo bản giới thiệu của Đồng Nhân Đường Bắc Kinh, thì An cung ngưu hoàng hoàn do danh y Ngô Cúc Thông thời Thanh sáng lập trên cơ sở kế thừa cổ phương. Phương thuốc có mùi thơm, có tác dụng khai khiếu trừ đàm, giải độc, bảo vệ thận, an thần và thông phổi…
An cung Ngưu hoàng hoàn là thuốc cấp cứu Đông y truyền thống, được dùng cấp cứu và điều trị đột quỵ, nhồi máu não, tai biến mạch máu não, xuất huyết não, Viêm màng não, Viêm não tê cứng hàm, co giật, hôn mê cực kì hiệu quả và nhanh chóng, nhiều người bị hôn mê, nằm viện mấy ngày không tỉnh tiên lượng rất xấu, uống An Cung Ngưu Hoàng Hoàn đã tỉnh lại và hồi phục. Thành phần : Ngưu hoàng , Tê giác (hoặc Thuỷ tê giác), Trân châu (Ngọc trai), Hoàng liên, Chu sa, Hùng hoàng, hoàng cầm, sơn chi, xạ hương, uất kim.....
Trong đó các vị thuốc Tê giác, hoàng cầm, Sơn chi, Hoàng liên .... thanh nhiệt an thần trấn kinh cực mạnh, làm cho các tế bào não giảm hưng phấn, tiêu thụ oxy ít nhất
Xạ hương có tính chất tuyên thông khai khiếu cực mạnh, làm cho tri giác phục hồi, và có khả năng thông mạch, (chính vì tính chất này nên phụ nữ có thai không được dùng vì sẽ bị sẩy thai)
Chính vì có tính chất như vậy nên bài thuốc này điều trị đột quị (Thể chứng bế, nhồi máu não) cực kì hiệu quả. Các bệnh viện ở Trung quốc đều có loại thuốc này để điều trị đột quị.
Cách dùng:Hộp 02 viên hoàn, Hộp 10 viên hoàn mỗi viên 4g.Nếu người bệnh còn tỉnh táo: Ngậm nuốt nước dần . Nếu bệnh nhân không tỉnh táo, tri giác mù mờ: Nên hòa với nước cho uống dần. Nếu bệnh nhân hôn mê: Cho uống thuốc qua sond (ống thông nuôi dưỡng được đặt vào dạ dày), thậm chí có thể thụt qua đường hậu môn.Người lớn ngày 1 viên. Bệnh nặng có thể ngày 2 - 3 viên chia 2 - 3 lần . Đợt điều trị 3 - 5 ngày. Thuốc nên sử dụng càng sớm càng tốt trong vòng từ 10 ngày trở lại kể từ khi lâm bệnh thì hiệu nghiệm hơn.Thiết nghĩ trong tủ thuốc cấp cứu của mỗi gia đinh có bệnh nhân huyết áp cao hay từng có tiền sử tai biến mạch máu não, nên có sẵn từ 02 đến 03 viên An cung ngưu hoàng hoàn ,đề phòng khi bị tai biến hay có nguy cơ tai biến mạch máu não thì kịp thời cấp cứu được ngay trong vòng 24 tiếng đầu.Khi đó sẽ giảm tối đa di chứng cho người bệnh
Phan: lấy thủ làm công mua lấy vài viên về phòng. nếu không biết mua ở đâu và tin ai thì email cho mình mình chỉ chỗ mình đã mua dự phòng cho cụ ở nhà mình.