Search

2.12.21

SĀLĀ PĀLĪ, GIẢNG ĐƯỜNG, GIẢNG DẠY

SĀLĀ PĀLĪ
...
Tại Kỳ Viên Tự (chùa Kỳ Viên). Đức Phật thuyết cho hội chúng Tăng

Kỳ Viên Tự là do trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường cho Đức Phật. Mua lại từ nơi mảnh đất của hoàng tử Jeta. Vị này là hoàng tử giàu có. 
Việt Nam mình theo Trung Hoa, dịch chữ Jeta âm ra là Kỳ Đà. Kỳ Viên là vườn của ông Kỳ Đà (hoàng tử Jeta). Mình âm ra nghe kỳ lắm. Mình sai lầm nhiều lắm, cứ toàn là âm. Ví dụ như Sariputta là con trai bà Sari, mà mình âm ra là Xá Lợi Phất. (không có nghĩa gì hết).
Nói về chữ  Kỳ Viên|Tự
‘Tự’ trong tiếng Pāḷi có hai chữ: Vihāra và Arāma. Khi nói đến hai chữ này chúng ta phải biết phân biệt.
Arāma là một cái pagoda/temple. 
Nhưng Vihāra phải là một cái monastery.
Người VN mình lại cũng khổ nữa, dịch ra là Kỳ Viên tịnh xá. Chữ Tịnh xá đó không có nằm trong vihāra này. Nó là một cái tu viện, cái nơi tu tập hay cái tự viện. Còn cái này là cái ngôi chùa. Quí Phật tử đừng đọc một cách máy móc là Kỳ Viên tịnh xá mà không hiểu được chữ Vihāra. 
Vihāra là nơi tu tập, hay tu viện. Gồm có hai cái chánh điện. Còn Arāma chỉ có 1 chánh điện mà thôi. 
Vihāra chia làm hai chánh điện:

(1) SĪMĀ HALL, THÁNH ĐIỆN, LÀM CHỖ KIẾT GIỚI
(2) SĀLĀ PĀLĪ, GIẢNG ĐƯỜNG, GIẢNG DẠY


Sīmā hall dành cho tăng (Sangha). 
Sālā Pālī dành cho cư sĩ (Upasika/Upasiko). Người Phật tử phải biết điều đó. 
Khi người ta nói Vihara thì trong tự viện đó phải có hai chánh điện.
Chánh điện Sima Hall dành cho tăng, dành để hành tăng sự (Sangha Kamma): lễ giới đàn, truyền giới, bố tát Uposatha, phát lồ. Phật tử ít có dịp, khó được lên Sima Hall. 
Trong giới luật nói rõ, ngay cả Đức Phật và chư tăng không được phép mang dép vào trong Sīmā Hall. Do đó nơi đây bảo mật lắm, cẩn thận lắm. Thường thường có những cục đá để báo ranh giới sima mà Tăng chỉ định sau khi kiết giới. Khuôn viên đó trở thành Thánh địa Tam Bảo (Tiratana bhūmi). 
Ngôi chùa mà chưa Kiết giới Sima, không có Sima Hall, thì chưa được gọi là  Tiratana bhūmi (Lãnh địa, khu vực của Tam bảo).
Sālā Pālī là nơi dành cho cư sĩ tới tụng kinh, cúng dường, hay xin giới, ngồi thiền. Người ta gọi là nơi giảng đường, giảng dạy, nơi tu học dành cho cư sĩ. Chư tăng cử tới giảng dạy cho người cư sĩ ở nơi đó học về Tam học (giới định tuệ). Do đó, nơi gọi là Vihāra đòi hỏi cần phải có hai điều kiện không thể thiếu được.
Quí Phật tử qua bên Thái Lan thấy dễ dàng lắm. Giống như chùa Mahathat, chùa Mahachulalongkorn, hay Wat Arun là có hai chánh điện. Qua thiền viện Mahasi, chỗ trên lầu, kế đằng trước nhà của ngài Jatila đó là  Sīmā hall, mà xuống đằng sau có cái nhà hai tầng to cao đó là Sālā Pālī. Cái nhà lát đá cẩm thạch, cửa kiếng, vô lên lầu có một cái nữa đó là Sālā Pālī
Sīmā Hall thì khi nào có người xuất gia thì có ông Phật tử lên dọn dẹp bật đèn bật quạt lên, kế bên chỗ ngài Jatila đó, lúc Phật tử đứng sắp hàng để đi ra ăn cơm đó, nơi đó là Sima Hall đó. Còn xuống đằng sau có nhiều tòa nhà thật to đó là  Sālā Pālī, nơi đó không kiết giới Sīmā. Trong một ngôi chùa chỉ kiết giới một ngôi nhà Sīmā thôi chứ không được kiết giới tùm lum. Đó là phạm luật. Do đó vô thiền viện Mahasi có hai chánh điện là như vậy đó. Cái chánh điện mà ở giữa lên lầu đó là Sīmā để cho chư tăng xài Sangha Kamma (tăng sự). Còn ngoài ra không có phận sự, không có việc làm thì có người quản lý khóa cửa lại. Sợ những người không hiểu không biết về Luật bước vô đó mang giày mang dép thì quả báo khổ đến cho người đó rất là nặng. 
Sīmā từ khi kiết giới xong thì phía trên trên 16 yojana (do tuần) không có chư thiên nào đi qua được. Ở dưới từ 16 yojana trở xuống dưới không có địa ngục. Nếu có thì phải dời đi chứ không được ở đó. Cho nên quí Phật tử phải nhớ nơi nào có Sīmā hall thì nơi đó có Thánh địa Tam bảo (Tiratana bhūmi), nơi đó hết sức là phước báu, hết sức là oai lực.
Khi Đức Phật ngồi trong khuôn viên Tiratana bhūmi này, Ngài ngồi ở giữa, chư tăng ngồi dọc hai hàng hai bên, thì chư thiên bay ngang phải né dạt qua hai bên, chứ không bay xuyên ngang phía trên được. Khi đang làm lễ tăng sự, chư thiên phải bay né sang hai bên như vậy, chứ nếu bay ngang phía trên đầu thì Tứ đại thiên vương đánh rớt xuống sa địa ngục. Khi có tăng sự thì phải bay né ra hai bên như vậy.  Đó là Luật, không được bay trên đất của Tiratana bhūmi khi có tăng sự (Sangha Kamma). Còn khi đóng cửa khóa lại thì bay qua bay lại không sao. 
Chỗ Tiratana bhūmi nếu là chiều dài lớn thì người ta có đặt những cột trụ để báo cho biết nơi đó có ranh giới Sīmā. Thường là 4 hay 6  hay 9 trụ, tùy theo khuôn viên lớn hay nhỏ. Khi Kiết giới Sīmā thì trên mái nhà này không có mái nhà nào cao hơn che lấp qua. Do đó những lần như vậy thì chư tăng lựa chỗ nào khoảng trống rộng lớn không có cái gì chọt vô cái mái nhà kiết giới. Cây phải cắt hết những tán lá phía trên, không tán lá nào nằm trong khuôn viên kiết giới Sīmā. Cho nên, không có ai làm kiết giới Sīmā nào nằm trong chỗ của cây hết. Để khỏi phải cưa. Nhiều khi cưa đụng phải Rukkhadevatā (Thần cây) cũng ngại. Khó lắm. (Do đó họ lựa chỗ trống, như… Tứ Phương Tăng Tự, xây lên là đúng hà!)
Còn Arāma (pagoda/temple) thì là ‘chùa làng’, chùa nhỏ ở những thôn làng mà người dân đi ra đi vô, giống như cái miểu cái đình thôi. 

Vihāra là nơi tu tập, hay tu viện. Gồm có hai cái chánh điện. Còn Arāma chỉ có 1 chánh điện mà thôi.  Vihāra chia làm hai chánh điện: (1) SĪMĀ HALL, THÁNH ĐIỆN, LÀM CHỖ KIẾT GIỚI (2) SĀLĀ PĀLĪ, GIẢNG ĐƯỜNG, GIẢNG DẠY Sīmā hall dành cho tăng (Sangha).  Sālā Pālī dành cho cư sĩ (Upasika/Upasiko). Người Phật tử phải biết điều đó.



Trong đời Đức Phật có ba ngôi chùa rất to lớn:


1. Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự)
2. Veluvana  Vihāra (Trúc Lâm Tự)
3. Pubbārama (Đông Phương Tự), đây là khu vực do bà Visākhā làm. Bà tốn 90 triệu đồng tiền vàng do bán đấu giá cái áo mà ngày lễ cưới bà mà người cha bỏ tiền công ra mướn người ta kết hột xoàn trong đó. Khi người giúp việc của bà Visākhā bỏ quên cái áo trên chánh điện của Jetavana, khi trở lại thì đại đức Ānanda đã dọn rồi, bà không dám đụng vô. Qua ngày hôm sau bà xin Đức Phật chỉ dạy. Ngài nói lấy ra đem bán đấu giá, người nào mua được, cho người ta thỉnh mua thì không phạm tội; thứ hai là lấy cái tiền bán đấu giá đó làm việc nên làm. Thế là bà xin cúng dường một ngôi chùa, đây là Đông Phương Tự.
Jetavana là do trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường. Veluvana  là do vua Bình Sa Vương (Bimbisāra /Tần Bà Sa La)) cha của vua A-Xà-Thế cúng dường cho Ngài. Trên con đường đi tìm đạo, Đức Phật có hứa với vua Bình Sa Vương là Ngài sẽ trở lại độ cho Vua. Sau khi đắc đạo quả xong Ngài quay trở lại độ cho vua Bình Sa đắc được Sơ đạo, Sơ quả. Xong rồi ông phát tâm cúng dường ngôi chùa cho Đức Phật.
Sau đó Đức Phật lại tiếp tục đi trở về Kapilavatthu để độ hoàng thân quốc thích theo lời thỉnh cầu của Vua cha. Ngài về đó ở lại độ cho hoàng thân quốc thích của Ngài đắc đạo quả xong Ngài ra đi. Khi ra đi được một thời gian thì Pubbārama hình thành vì lúc đó Đức Phật trở về làng của bà Visākhā để độ những người thân bằng quyến thuộc ở đó. Lúc đó bà Visākhā cúng dường Đức Phật Pubbārama. Pubbārama chỉ có một chánh điện thôi. Còn Kỳ Viên và Trúc Lâm đều có hai chánh điện cả. Mang tên là Vihara đều phải thực hiện hai ngôi chánh điện nơi tu viện, thiền viện đó.
Sima Hall hay Sangha Kamma hay Tiratana Bhūmi – lãnh địa của Tam bảo, thánh địa tam bảo. Sālā Pālī dành cho Upasika những cận sự nam, cận sự nữ tới tu Tam học tại nơi đó. Khi quí Phật tử là người cư sĩ thì chỉ đến Sālā Pālī mà thôi chứ không được tới Sima Hall nơi Tiratana Bhūmi. Thường thường nơi đó dành cho chư tăng. 
Nơi Sālā Pālī này thì quí Phật tử muốn cúng giỗ, cầu siêu cha mẹ ông bà; cúng dường, để bát, dâng quê, cúng vật thực cho chư tăng. Nơi đây sau khi cúng dường xong, chiều đó học Phật pháp Đức Phật dạy, hay chư tăng tới giảng dạy.
Còn  Sima này dành cho chư tăng để chư tăng… ngủ. (cười)
Khi đọc kinh này mà quí Phật tử đọc “Kỳ viên Tịnh Xá” là Sư nghe Sư xốn xang lắm. Vì nó không có nằm trong danh tự của Pāḷi hay ý nghĩa của câu từ đó. Uổng lắm. Kỳ Viên Tự hay tự viện được rồi, chứ không có ‘Tịnh xá’. Trong đó không có Tịnh xá mà là “Động quá xá” nữa, cho nên đâu có gọi là Tịnh xá được. Còn Tự viện thì có thể vô đó… tự tử. (Cười). Vô đó để làm gì? Tự tử! Vậy quí vị thích Tịnh Xá, hay là Động quá xá, hay Tự viện? Còn Tứ Phương Tăng là Tự viên chớ không phải Tự viện. (Cười)
Trên đường quí Phật tử đi các nơi ở Thái Miến thấy ghi chữ Vihara là biết hai chánh điện, đi vô Arama là thấy có một chánh điện. Quý Phật tử hỏi chỗ nào là Sālā Pālī thì quí Phật tử đi tới. Chỗ nào là Sima Hall thì quý Phật tử đừng đi tới. Vô đó là đụng với chư tăng. Nhiều khi quí Phật tử đi tới thấy người ta đang ngủ, quần áo chưa chỉnh tề, kỳ lắm. Sima Hall -- Tiratana Bhūmi đừng tới, để không phạm luật, không có những lỗi lầm bất ngờ mà không ai chỉ dạy mình. Sống trên đời phải biết để phòng hộ cho mình được an toàn. Nên nhớ chỗ Sima là chỗ cho chư tăng, chỗ Sālā là chỗ cho cư sĩ. Vô mà thấy là Vihara là phải hỏi liền chỗ nào Sima, chỗ nào Sālā. Còn Ahara thì chỉ có một, đó là nơi kiết giới Sima đó!!!! Cho nên quí Phật tử phải cẩn thận đó. Chỗ đó có một thôi thì vô phải tháo dép ra. Khi trở ra ngoài thì quí Phật tử đã có Tu viện “Chân Không”, (cười), vì ra mất đôi dép. Phải nhiều kinh nghiệm được. Sư thì sương gió nhiều nên kinh nghiệm rồi. 

Do đó phải nhớ, Arama thì tới vô đảnh lễ, vô kiếm Phật cũng được, nhưng mà phải tháo dép ra. Tháo dép ra là ngoài cái hàng rào mốc của Sima; chớ không phải đem vô trong. Nhiều Phật tử còn đem vô trong để góc tường, bỏ bọc ny-lon nữa. Bây giờ thì người ta có ghi rồi. Nhưng đều có những trụ mốc ghi chữ ‘SĪMĀ’ hết. Một cái bia có chữ  SĪMĀ, hoa văn xung quanh, và có hình ‘con mắt trợn’ vầy nè. Đừng có vô! (“Con mắt trợn” là Sư phụ chú giải ‘sub-commentary’ thôi chớ không có nghen.) 
....

Nguồn: Sư Sán Nhiên
VIHARA, ARAMA,  SĪMĀ, BAI SEMA LÀ GÌ
(Bản nháp ghi trong lúc học, chia sẻ cho đồng đội đọc cho vui, không nên copy)
https://www.facebook.com/12345678910111213anna/posts/4333906036636356


Thống kê bài đọc nhiều theo thời gian

ÁI DỤC LÀ NGƯỜI XÂY DỰNG CÁI NHÀ NÀY

ÁI DỤC LÀ NGƯỜI XÂY DỰNG CÁI NHÀ NÀY


8. Xuyên qua nhiều kiếp sống. Như Lai thênh thang đi trong vòng luân hồi để tìm, nhưng không gặp, người thợ cất nhà này. Phiền muộn thay, đời sống triền miên tái diễn. 153.
9. Này hỡi người thợ làm nhà! Người đã bị bắt gặp. Ngươi không còn cất nhà nữa. Tất cả rui mè của ngươi đã gãy. Cây đòn dông của ngươi cũng bị phá tan.
Tâm của Như Lai đã thành đạt trạng thái vô lậu. Mọi ái dục đã hoàn toàn chấm dứt. 154.


8. Anekajāti saṁsāraṁ - sandhāvissaṁ anibbisaṁ
Gahakārakaṁ gavesanto- dukkhā jāti punappunaṁ.
9. Gahakāraka diṭṭho' si -puna gehaṁ na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā -gahakūṭaṁ visaṅkhitaṁ
Visaṅkhāragataṁ cittaṁ -taṇhānaṁ khayam ajjhagā

Anekajāti saṁsāraṁ - sandhāvissaṁ anibbisaṁ Gahakārakaṁ gavesanto- dukkhā jāti punappunaṁ. 9. Gahakāraka diṭṭho' si -puna gehaṁ na kāhasi Sabbā te phāsukā bhaggā -gahakūṭaṁ visaṅkhitaṁ Visaṅkhāragataṁ cittaṁ -taṇhānaṁ khayam ajjhagā



Tích chuyện
Ðức Phật đọc câu kệ này liền sau khi thành đạt Ðạo Quả Vô Thượng.
Chú thích
1.- Hai câu này, gọi là bài kệ phỉ lạc (udāna) đầu tiên, mà Ðức Phật đọc lên liền sau khi chứng ngộ đạo quả Vô Thượng, không thể tìm thấy nơi nào khác. Vì Ðại đức Ānanda đã nghe hai câu này chính từ miệng Ðức Phật đọc lên nên bài kệ được sắp trong kinh Pháp Cú.

Ở đây, Ðức Phật xác nhận cuộc đi thênh thang bất định trong nhiều kiếp sống quá khứ đầy đau khổ, một sự kiện hiển nhiên chứng minh có nhiều kiếp tái sanh. Ngài phải đi bất định, và do đó, phải chịu khổ đau, phải thênh thang mãi cho đến ngày tìm ra được người kiến trúc sư đã xây dựng cái nhà này, tức thể xác này. Trong kiếp cuối cùng, giữa khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng thiêng, lúc đi sâu vào công trình thiền định mà Ngài đã dày công trau giồi từ xa xôi trong quá khứ, trải qua cuộc hành trình bất định, Ngài khám phá ra anh thợ cất nhà hằng mong mỏi muốn biết. Anh thợ này không ở ngoài, mà ở sâu kín bên trong Ngài. Ðó là ái dục, sự tự tạo, một thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Ái dục xuất phát bằng cách nào thì không thể biết. Cái gì ta tạo ra, ta có thể tiêu diệt. Tìm ra anh thợ cất nhà tức tận diệt ái dục, trong lúc đắc quả A-La-Hán, mà trong bài kệ này, ý nghĩa bao hàm trong thành ngữ chấm dứt ái dục.

Mè rui, hay cái sườn nhà, của căn nhà tự tạo này là những ô nhiễm như tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, vô tàm, vô úy. Cây đòn dông chịu đựng cái sườn là vô minh, căn nguyên xuất phát của mọi dục vọng. Phá vỡ cây đòn dông vô minh bằng trí tuệ tức là làm sập căn nhà. Sườn và đòn dông là vật liệu mà anh thợ dùng để cất nhà, cái nhà không đáng cho ta ham muốn. Vậy, khi hết vật liệu xây cất, tức nhiên anh thợ không còn dựng nhà được nữa.

Khi cái nhà đã bị phá tan tành thì cái tâm, mà trong tích chuyện, không được đề cập đến, đã thành đạt trạng thái vô lậu, vô sanh, bất diệt, là Niết-bàn. Tất cả cái gì còn tại thế đều phải bị bỏ lại phía sau và chỉ có trạng thái siêu thế, Niết-bàn, sẽ tồn tại.

Nguồn: KINH PHÁP CÚ #DHAMMAPADA
Tác giả: Nārada Mahāthera
Người dịch: Phạm Kim Khánh, 1971
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-phapcu-ev/pkk-11.htm


Thống kê bài đọc nhiều theo thời gian