Nguồn Gốc Mê Tín
| .jpg) | 
| Lá Bồ Đề. | 
Mê tín không phải     là sự ngẫu nhiên phát sinh mà có nguồn gốc phát     xuất cụ thể. Có hai thứ nguồn gốc mê tín: 
Mê     tín do tâm mong cầu -     Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả     năng mình thì dễ sinh mê tín. Ví như có một người     muốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết     việc làm ăn này sẽ kết quả tốt hay xấu. Tự     nhiên lòng họ thấy băn khoăn lo lắng không     biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói có ông đồng bà cốt     nào đó linh ứng, nói quá khứ vị lai rất trúng,     họ liền muốn tìm tới hỏi han. Chỉ tốn     tiền quẻ có năm bảy trăm, mà biết việc     làm cuả mình thành công hay thất bại thì an ổn     biết mấy. Hoặc trên đường công danh có những     học sinh, sinh viên đến kỳ thi cử, lo âu thân     phận mình không biết thi đậu hay rớt. Nghe đồn     Lăng này, Miếu kia linh hiển xin xăm bói quẻ     sẽ báo đúng những điều sắp đến, các cô,     các cậu không tin vào khả năng học hành của     mình, nhất định đi đến xin xăm để hỏi     thăm thần thánh xem thế nào. 
Mê     tín do tâm sợ hãi - Sợ     hãi là gốc sinh ra mọi mê tín. Một gia đình     nọ tiếp tục xảy ra đôi ba người chết     "bất đắc kỳ tử", những người còn lại     đâm ra hoảng hốt, nghe đâu có thầy bùa thầy chú     giỏi liền đi rước về ếm đối để     mình khỏi bị chết trùng. Chính vì sợ hãi mà     những người này sanh mê tín. Có những người bị tai     nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người     giựt nợ, con trai thi rớt, con gái bị bệnh.. mất     bình tĩnh, nghe đồn ông đồng này hay bà cốt kia     giỏi, họ liền tìm đến để cầu cứu     hộ, xin phép lạ về để trừ tai ách. Lại có     người sắp làm điều mạo hiểm, lo sợ không     biết vượt qua mọi hiểm nguy được chăng,     họ vào am vào miếu để thưa hỏi thần linh     bằng cách rút xăm bói quẻ. Nếu được xăm tốt     quẻ lành thì họ mới mạnh dạn xông pha. Có những     người mắc bệnh nan y, họ buồn khổ sợ     chết. Nghe bất cứ nơi đâu có sự linh thiêng mầu     nhiệm, họ đều đi đến để xin     thuốc cầu bùa. Dù phải làm những điều quái dị,     họ thảy đều chấp nhận, miễn sao lành     bệnh là vui. Hoặc có người sợ vận sui hạn xấu,     nên đầu năm đến chùa cúng sao cúng hạn, cầu     cho tròn năm cuộc sống được hanh thông, gia đình     được an vui may mắn. Hoặc có người vì thương cha     mẹ đã quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa     ngục chịu đói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ     thầy cúng dán lầu kho, xe cộ, giấy tiền giấy     bạc, lễ cúng đốt xuống cho cha mẹ được an hưởng     nơi âm ty... Mọi sợ hãi đều là cội nguồn     của mê tín. 
Là con người có ai     không mong cầu, không sợ hãi, đã có hai thứ này     thì nhất định sẽ rơi vào mê tín dị đoan. Khi chưa     gặp việc thì chúng ta chống đối mê tín, nhưng     gặp lúc có việc khắc khoải mong cầu, kinh hoàng     sợ hãi, chúng ta cũng trở thành mê tín như ai. Dù     là người có bằng cấp cao, có kiến thức rộng,     nếu trong tâm có mong cầu sợ hãi, họ cũng sẽ     rơi vào hố mê tín. Có những người đứng trước     quần chúng thì miệt thị chê bai kẻ mê tín, song     về nhà gặp lúc gia cảnh rối nùi bà xã vẫn đi     bói quẻ xin xăm, hỏi quá khứ vị lai nơi ông đồng     bà cốt. Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói     hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn     được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sinh mê     tín dị đoan. Thế nên bệnh mê tín dị đoan     là bệnh bẩm sinh có sẵn nơi mọi con người.     Muốn chữa lành bệnh này phải là bậc Thánh y và     thần dược mới mong điều trị được. 
Pháp Phật dạy trị bệnh mê tín 
Phật là bậc Thánh     y, pháp của Phật dạy là thần dược, nếu ai tin     nơi Phật, dùng thuốc Phật dạy trị mê tín chắc chắn     sẽ được lành. Pháp Phật dạy trị bệnh mê tín     có hai thứ: 
Nhân     quả - Nhân quả là sự     thật, là lý đương nhiên mà người đời ít ai     nghĩ đến. Bởi con người cố mong cầu cái quả mà     không cân xứng cái nhân. Hoặc họ ước mơ nhặt     được những cái quả ngoài tầm tay của họ. Hoặc     họ không có tâm tự tín nên làm việc gì     cũng ngờ vực lo âu. Ðó là những lý do khiến     họ đâm ra mê tín. Nếu mọi người tự     biết rõ rằng mọi hậu quả nên hư tốt xấu,     thành công thất bại đều do nguyên nhân hay dở     đủ thiếu của con người tạo nên. Không có cái     quả nào tự trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất     bỗng dưng hiện lên, mà đều do trí sáng     suốt và sức lao động cần cù của con người tạo ra.     Chúng ta cứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt     nhất định đến. Ví như chúng ta muốn có quả     một cây cam mật, trước chúng ta phải chọn giống     từ cam mật, hoặc chiết cành từ cây cam mật.     Kế đó, chúng ta phải lựa chỗ đất mầu mỡ     ương giống xuống tồi tưới nước bón phân đúng     thời đúng lúc, chăm sóc sâu bọ đừng cho phá     hại. Sau này chúng ta sẽ thu hoạch được quả cam mật     không sai. Chúng ta khỏi phải mong cầu, khỏi phải     trông đợi mà quả sẽ thành tựu viên mãn theo sở     nguyện của mình. Cũng thế, mọi sự nên hư     thành bại trong đời mình không phải ngẫu nhiên mà     đến, không phải từ ai ban cho, mà do những cái     nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy     đủ thì quả thành. Không phải chúng ta cầu xin mà     nó đến, không phải chúng ta xua đuổi mà nó đi,     một khi nhân đã thành thì quả phải chịu. Chúng ta     cứ sợ tai ương đổ lên đầu chúng ta, mà lại không     sợ những nhân xấu do mình đã gieo từ trước. Chúng     ta cầu thần khấn Phật ban bố phúc lành cho chúng ta,     mà chúng ta không chịu ban ơn bố đức cho những     người chung mình. Những nhân xấu kết hợp thành     quả xấu, những nhân tốt tụ hội thành quả tốt. Cầu     mong quả tốt mà không chịu gieo nhân tốt, sợ hãi     quả xấu mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu mong     sợ hãi ấy chỉ là việc không đâu. Chi bằng     chúng ta ngày cứ tạo nhân lành, tránh nhân dữ, chả     cầu mong sợ hãi chi hết. 
Song nhân quả không     phải đơn thuần mà đa dạng, chẳng phải chỉ do trực     tiếp ở đời hiện tại mà lại gián tiếp     của nhiều đời. Biết rõ nhân quả tự mình     gây tạo, chúng ta can đảm nhận những quả khổ mà     không chút sợ hãi buồn phiền. Mình làm chủ tạo     nhân, chính mình làm chủ thọ quả, còn cầu xin     cái gì, cần hỏi han ai nữa. Chỉ mình sáng suốt khi     tạo nhân, cần cù nuôi dưỡng bảo vệ cho nhân     tăng trưởng, thì quả chín mọng sẽ đến tay     mình một cách dễ dàng. Chúng ta tin chắc lý nhân     quả như thế, mọi mê tín sẽ tan theo mây     khói. Ðấy là quyền con người sẽ nằm trọn     trong bàn tay cuả chúng ta. 
Ba     cửa giải thoát (Tam     giải thoát môn) - ba cửa này là Không, Vô Tướng,     Vô nguyện (vô tác). Ðây là người tu được     trí tuệ thâm hậu thấy suốt con người và ngoại     cảnh đúng như thật. Không là từ con người     cho đến muôn vật đều do nhân duyên kết     hợp thành không có chủ thể nhất định. Bởi căn     cứ trên lý nhân duyên, thấy vạn vật không có     chủ thể nên nói là "Không". Từ một cái     nhà cho đến cái bàn, cái ghế, cây bút chì     ... tìm thử cái gì là chủ thể của nó. Nếu     có chủ thể thì không đợi duyên hợp, đợi duyên     hợp mới có thì nhất định không có chủ thể.     Ðến con người chúng ta thử tìm xem cái gì là     chủ thể của thân này? Như Phật dạy thân này do     tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, thiếu     một trong bốn thứ thì thân phải hoại. Ðã là bốn     thứ thì thứ nào là chủ ? Có một thứ làm chủ thì     thiếu một thứ khác tại sao nó không còn ? Bốn     thứ này lại thù địch chống đối nhau, đem bốn đứa     thù nhốt chung một chỗ thì có an ổn không ?     Chúng ta có bổn phận phải nuôi dưỡng điều hòa     bốn kẻ thù này bằng cách chọn những thức ăn     uống nào để quân bình chúng. Về tinh thần     cũng thế, nội tâm chúng ta có mặt tốt xấu     thiện ác đủ thứ, thử hỏi cái nào là chủ. Cho     nên nói là đời sống của ta, mà thực sự cái gì là     ta? Cái ta chỉ là tưởng tượng chớ không có thực     thể. Từ lãnh vực không có thực thể nhìn sang     lãnh vực "vô tướng" thực hợp lý     vô cùng. Bởi vì vạn vật không có thực thể nên     không có tướng thật (vô tướng) của nó. Cái mà     chúng ta trông thấy, sờ mó được chỉ là giả tướng     của duyên hợp mà thôi. Người, vật chỉ là tướng     hư giả. Ðã là hư giả chúng ta có mong cầu để     được, sợ hãi khi mất hay không? Thế là tiến     đến "vô nguyện". Bởi thấy     thân hư dối, mọi vật hư dối, chúng ta không còn     tham sống sợ chết, không còn ham mê vàng     ngọc. Ðã thấy trên thế gian này không có     cái gì đáng mong cầu, đáng sợ hãi, thì còn gì     phải khấn nguyền, phải van xin, phải thưa hỏi các     vị thánh thần. Dùng trí tuệ này dẹp tan mê tín,     như chế nước sôi trên băng. Ba cửa giải thoát     này là đỉnh cao trí tuệ, thấy tận cùng bản     chất con người (ngã) và vạn vật (pháp). Chính do     thấy rõ bản chất hư dối của chúng, nên gỡ bỏ     mọi mê lầm cố chấp, mọi tham lam trói buộc,     được tự tại an vui, gọi là giải thoát.
Mê: Lầm lạc. Tín: tin, tin tưởng, đức tin. 
Mê tín là tin tưởng một cách mù quáng, sai lầm.
Trái với Mê tín là Chánh tín.
Chánh tín là sự tin tưởng đúng đắn, chơn chánh.
Do đó, người có Chánh tín thì giữ đức tin được bền vững, còn người mê tín thì dễ mất đức tin.
Làm thế nào biết được đâu là chánh tín, đâu là mê tín?
Chánh tín là tin tưởng mạnh mẽ vào những giáo huấn của các Đấng Tiên Phật trong Pháp Chánh Truyền, các Đạo Nghị Định, tin tưởng Tân Luật là Thiên điều tại thế, người tín đồ cứ do theo đó mà tu hành, nhứt định sẽ đạt được cứu cánh mong muốn.
Những điều giáo huấn và luật pháp ấy đều chơn thật và đúng đắn, mà chúng ta với trí não còn vô minh, chưa thể nhận biết rõ ràng, nên cần phải có lòng tin tưởng mạnh mẽ để noi theo và thực hành. Đó là Chánh tín.
Chánh niệm thuộc Chánh tín, vọng niệm thuộc Mê tín.
Những sự mê tín thường có tính cách vụ lợi cho cá nhân mình hay cho người đưa ra điều đó.
Thí dụ như việc cầu nguyện: "Cầu nguyện với Đức Phật Mẫu, và các Đấng thiêng liêng ban cho mình phước lành để mình thoát khỏi tai nạn hay để làm ăn phát đạt, mau thăng quan tiến chức." Cầu nguyện như vậy là vọng niệm, là mê tín, bởi vì các Đấng đều phải giữ luật Công bình thiêng liêng, để cho luật Nhơn Quả tự nó thể hiện, chớ không thể tự ý muốn ban phước hay gieo họa ngoài luật Nhơn Quả được. Mọi việc đều gắn liền với luật Nhơn Quả, không bao giờ sai chạy.
Muốn là Chánh niệm hay Chánh tín thì chúng ta cầu nguyện: "Cầu nguyện Đức Phật ban ơn lành cho nhơn sanh sớm giác ngộ tu hành."
Về việc cúng tế Thần linh, chúng ta nhớ câu trong sách Nho: "Thiên địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng họa." Nghĩa là: Trời Đất không tư vị riêng ai, Thần linh sáng suốt ngấm ngầm xem xét, không vì hưởng sự cúng tế mà giáng ban cho phước lộc, không vì sự không cúng tế mà gieo cho tai họa.
Sự may rủi, tốt xấu, họa phước, đến với mỗi người đều là do luật Nhơn Quả thị hiện, tức là có nguyên do rõ rệt là những việc làm đạo đức hay hung ác của mình trước đây hay trong kiếp trước, nay nó báo đáp lại và thể hiện ra.
Luật Nhơn Quả không sai một mảy,
Gieo giống nào, giống ấy nẩy lên.
Trồng dưa thì hái dưa liền,
Tạo điều thất đức báo đền họa tai.
Không rõ nguồn
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.
Sấm Giảng - Quyển 5
Trong dân chúng, thường thấy các việc mê tín như: Đồng bóng, xin xăm bói quẻ, vay tiền Thần Thánh để mua bán, đốt giấy tiền vàng bạc, bùa phép cầu duyên, cầu tài, cúng sao giải hạn, v.v...
Sự mê tín có muôn ngàn hình thức, biến hóa tùy theo thị hiếu của dân chúng. Trong mỗi người chúng ta hình như đều có sẵn một chút mê tín, vì mỗi người đều có dục vọng và lòng tham lam ích kỷ.
Muốn dẹp bỏ sự mê tín, chúng ta cần phải học đạo để rõ thông đạo lý, đem cái sáng suốt của lương tri lương năng ra phán đoán, phân biệt Chánh tín và Mê tín, trừ bỏ mê tín, nuôi dưỡng và phát huy chánh tín
Mê tín là tin tưởng một cách mù quáng, sai lầm.
Trái với Mê tín là Chánh tín.
Chánh tín là sự tin tưởng đúng đắn, chơn chánh.
Do đó, người có Chánh tín thì giữ đức tin được bền vững, còn người mê tín thì dễ mất đức tin.
Làm thế nào biết được đâu là chánh tín, đâu là mê tín?
Chánh tín là tin tưởng mạnh mẽ vào những giáo huấn của các Đấng Tiên Phật trong Pháp Chánh Truyền, các Đạo Nghị Định, tin tưởng Tân Luật là Thiên điều tại thế, người tín đồ cứ do theo đó mà tu hành, nhứt định sẽ đạt được cứu cánh mong muốn.
Những điều giáo huấn và luật pháp ấy đều chơn thật và đúng đắn, mà chúng ta với trí não còn vô minh, chưa thể nhận biết rõ ràng, nên cần phải có lòng tin tưởng mạnh mẽ để noi theo và thực hành. Đó là Chánh tín.
Chánh niệm thuộc Chánh tín, vọng niệm thuộc Mê tín.
Những sự mê tín thường có tính cách vụ lợi cho cá nhân mình hay cho người đưa ra điều đó.
Thí dụ như việc cầu nguyện: "Cầu nguyện với Đức Phật Mẫu, và các Đấng thiêng liêng ban cho mình phước lành để mình thoát khỏi tai nạn hay để làm ăn phát đạt, mau thăng quan tiến chức." Cầu nguyện như vậy là vọng niệm, là mê tín, bởi vì các Đấng đều phải giữ luật Công bình thiêng liêng, để cho luật Nhơn Quả tự nó thể hiện, chớ không thể tự ý muốn ban phước hay gieo họa ngoài luật Nhơn Quả được. Mọi việc đều gắn liền với luật Nhơn Quả, không bao giờ sai chạy.
Muốn là Chánh niệm hay Chánh tín thì chúng ta cầu nguyện: "Cầu nguyện Đức Phật ban ơn lành cho nhơn sanh sớm giác ngộ tu hành."
Về việc cúng tế Thần linh, chúng ta nhớ câu trong sách Nho: "Thiên địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng họa." Nghĩa là: Trời Đất không tư vị riêng ai, Thần linh sáng suốt ngấm ngầm xem xét, không vì hưởng sự cúng tế mà giáng ban cho phước lộc, không vì sự không cúng tế mà gieo cho tai họa.
Sự may rủi, tốt xấu, họa phước, đến với mỗi người đều là do luật Nhơn Quả thị hiện, tức là có nguyên do rõ rệt là những việc làm đạo đức hay hung ác của mình trước đây hay trong kiếp trước, nay nó báo đáp lại và thể hiện ra.
Luật Nhơn Quả không sai một mảy,
Gieo giống nào, giống ấy nẩy lên.
Trồng dưa thì hái dưa liền,
Tạo điều thất đức báo đền họa tai.
Không rõ nguồn
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.
Sấm Giảng - Quyển 5
Trong dân chúng, thường thấy các việc mê tín như: Đồng bóng, xin xăm bói quẻ, vay tiền Thần Thánh để mua bán, đốt giấy tiền vàng bạc, bùa phép cầu duyên, cầu tài, cúng sao giải hạn, v.v...
Sự mê tín có muôn ngàn hình thức, biến hóa tùy theo thị hiếu của dân chúng. Trong mỗi người chúng ta hình như đều có sẵn một chút mê tín, vì mỗi người đều có dục vọng và lòng tham lam ích kỷ.
Muốn dẹp bỏ sự mê tín, chúng ta cần phải học đạo để rõ thông đạo lý, đem cái sáng suốt của lương tri lương năng ra phán đoán, phân biệt Chánh tín và Mê tín, trừ bỏ mê tín, nuôi dưỡng và phát huy chánh tín