Phanblogs Đức phật đã dạy những gì hòa thượng Walpola rahula ns.trí hải dịch (1998)
Ðức Phật tên Tất-Ðạt-Ða (P.Siddhattha, S.Siddhàrtha), họ Cồ-Ðàm (P. Gotama, S.Gautama), sống ở Bắc Ấn vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch.Phụ thân Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cai trị vương quốc của bộ tộc Thích-ca (Sàkya; trong xứ Nepal ngày nay).Mẹ ngài là hoàng hậu Ma-gia (Màyà).
Theo tục lệ tảo hôn thời ấy, năm 16 tuổi ngài cưới công chúa xinh đẹp đức hạnh tên Da-giu-đà-la (Yasodharà).
Vị thái tử trẻ sống trong cung điện đầy xa hoa lộng lẫy.Nhưng khi va chạm với thực tại cuộc sống và khổ đau của loài người, ngài quyết định đi tìm một giải pháp, con đường ra khỏi nỗi khổ bao la này.
Năm 29 tuổi sau khi người con duy nhất La-hầu-la (Ràhula) ra đời, Ngài từ bỏ cung điện, trở thành một người khổ hạnh lên đường tìm đạo giải thoát.
Trong 6 năm Ngài lang thang khắp thung lũng sông Hằng (Ganges), gặp những vị thầy danh tiếng, học lý thuyết và thực hành phương pháp của họ, khép mình vào những lối tu khổ hạnh khắt khe.
Không thỏa mãn với những lý thuyết và thực hành ấy, Ngài từ bỏ mọi giáo lý và phương pháp truyền thống để đi theo con đường riêng.
Cuối cùng, một buổi chiều ngồi dưới một cội cây (từ đấy cây này được gọi là cây Bồ đề có nghĩa là "trí tuệ") bên bờ sông Ni-liên (Neranjarà) ở Buddha-Gaya (Bồ-đề đạo tràng, gần Gaya trong xứ Bihar ngày nay) ngài đã đạt giác ngộ.
Từ đấy Ngài được tôn xưng là đức Phật, "Người đã Giác ngộ".
Năm ấy Ngài 35 tuổi.
Sau khi chứng đạo, đầu tiên Phật thuyết pháp cho một nhóm 5 nhà khổ hạnh, những người bạn cũ của Ngài, tại vườn Nai (Lộc uyển) ở chư thiên đọa xứ (Isipatana, tức Sarnath ngày nay) gần Ba-la-nại (Benarès).
Từ ấy ngài giáo hóa suốt 45 năm cho tất cả mọi tầng lớp nam nữ, vua chúa và thường dân, Bà la môn và cùng đinh, thương gia và hành khất, tu sĩ và bọn cướp - hoàn toàn không phân biệt.
Ngài không công nhận những dị biệt về giai cấp hay tập đoàn xã hội, và Ðạo ngài mở rộng cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, bất cứ ai sẵn sàng hiểu và tin theo.
Năm 80 tuổi, Phật nhập diệt ở Câu-thi-na (Kusinàrà, nay là Uttar Pradesh).
Hiện nay đạo Phật được lan truyền tại Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Cao Miên, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên, Ðài Loan và một vài nơi ở Ấn độ, Hồi quốc và Nepal và cả ở Liên Xô.
Tín đồ Phật giáo trên thế giới có trên 500 triệu.
Chân thành cám ơn Ðạo hữu Bình Anson đã gửi tặng Thư Viện Hoa Sen phiên bản vi tính quyển sách này (Tâm Diệu)
Đức phật đã dạy những gì hòa thượng Walpola rahula ns.trí hải dịch (1998) |
Ðại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa
bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Ðại học Tích Lan đậu bằng B.A
(London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp
bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Ðại đức qua Calcutta, cộng tác với các
giáo sư Ðại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Ðại
đức qua Ðại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước)
và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở.
Như vậy Ðại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Ðại thừa và
Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Ðại đức và trong câu
chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa
Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận
và thọ trì một số giáo lý căn bản.
Nói một cách khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông
hay Bắc tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch sử và
sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong
tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn
bản chung cho tất cả truyền thống. Quyển sách này là một sự cố gắng của tác
giả để giới thiệu những giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo
Phật cũng cần phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật
tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Ðại thừa, lại cần phải
hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết của mình và để tìm lại
sự liên tục của quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh
viên Ðại học Vạn Hạnh, tài liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu
căn bản và tối thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình.
Quyển sách này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối
cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận, phương
pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế và liên hệ ngay đến
đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị quyển này phần lớn nhờ ở điểm
này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh
cho sự trình bày của mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng
được hoan nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang
qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua cảm tình và
sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng và thái độ của đức Phật
bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Ðể bớt tệ hại này, phương pháp hữu hiệu nhất
là dẫn chứng trong kinh điển những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng
quan điểm của mình trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này
đã theo rất trung thành.
Dịch giả quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới học
giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của cô để cần phải giới
thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo đảm cho giá trị dịch thuật của
tập sách này rồi.
Saigon, ngày 9-1-1966
Tỳ-kheo Thích Minh Châu
Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh