Search

16.12.25

CON ĐƯỜNG CỔ XƯA

CON ĐƯỜNG CỔ XƯA

CON ĐƯỜNG CỔ XƯA
CON ĐƯỜNG CỔ XƯA



...
Con đường mà chư Phật Chánh Đẳng Giác thời quá khứ từng đi qua.

Ví như một người đi ngang qua rừng sâu hay dãy núi, tình cờ phát hiện ra một con đường cổ xưa - con đường mà người đời trước từng đi qua. Người ấy lần theo dấu vết ấy, đi mãi cho đến khi nhìn thấy một thành trì cổ: có vườn tược, rừng cây, hồ ao, tường thành kiên cố và đẹp đẽ.

Rồi người ấy trở về tâu với nhà vua hoặc bậc đại thần:
“Thưa chư tôn, khi đi ngang rừng núi, tôi đã thấy một con đường xưa. Tôi đi theo con đường ấy và phát hiện ra một cổ thành từng có người sinh sống, với vườn tược, hồ ao, rừng cây và tường lũy rất đẹp. Xin hãy cho dựng lại nơi ấy.”
Vị vua hoặc đại thần nghe vậy liền cho khôi phục lại thành cổ. Theo thời gian, thành ấy trở nên trù phú, đông đúc, thịnh vượng.

Cũng như vậy, Như Lai đã tìm thấy một con đường xưa - con đường mà chư Phật Chánh Đẳng Giác thời quá khứ từng đi qua.
Và con đường ấy là gì? Chính là Thánh đạo tám ngành: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

Như Lai đã đi theo con đường ấy. Khi đi theo, Ngài thấy rõ già và chết, thấy nguyên nhân khiến già chết sinh khởi, thấy cách già chết đoạn diệt, và con đường đưa đến đoạn diệt ấy.
Đi theo con đường ấy, Ngài thấy rõ từng mắc xích trong vòng duyên khởi: sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu xứ, danh sắc, thức, và hành. Ngài thấy rõ từng pháp ấy sinh khởi thế nào, diệt thế nào, và con đường đưa đến sự đoạn diệt của chúng.
Những điều Như Lai đã thấy, Ngài đã giảng lại cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ - để họ cùng hiểu và thực hành.
Và chính Phạm hạnh này - con đường ấy - trở nên hưng thịnh, quảng đại, đông đảo người tu, được cả chư Thiên và loài Người ca ngợi, tán thán và gìn giữ.
...
Nguồn: Tương Ưng Nhân Duyên. VII: Ðại Phẩm: Mahāvagga. 12.65. Thành Ấp: Nagara
https://suttacentral.net/sn12.65/vi/minh_chau?lang=en&reference=none&highlight=false

ghi chú: 172

#Tư #Tín #Hỷ





Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

14.12.25

TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH

TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH


Có hai tầng sự thật người học pháp cần phân biệt rõ: tầng quy ước và tầng bản chất.


1. Tục Đế và Chân Đế

Trong sinh hoạt hằng ngày, ta dùng vô số tên gọi để mô tả con người và sự vật. Những từ như “tôi”, “anh ấy”, “cô ấy”, “người”, “thân”, “nhà”, “xe”… đều chỉ là các quy ước giúp chúng ta giao tiếp cho dễ. Chúng là Tục Đế. Khi nhìn kỹ, những tên gọi này không có bản chất riêng, vì chúng chỉ là sự gom lại của nhiều yếu tố khác nhau. Nếu tách các yếu tố ấy ra, cái tên gọi lập tức biến mất. Vì vậy Tục Đế không mang thực tính.
Ngược lại, Chân Đế chỉ những yếu tố không thể chia nhỏ hơn được nữa - những phần thật sự cấu thành thân và tâm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; các Tâm Sở; các pháp thuộc Danh Và Sắc vận hành theo quy luật tự nhiên. Khi nhìn một con người dưới góc độ Chân Đế, ta không còn thấy “người” theo cách thường gọi, mà thấy các Uẩn đang sinh rồi diệt.

TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH
TỤC ĐẾ CHÂN ĐẾ VÀ THỰC TÍNH



Ví dụ để làm rõ bản chất quy ước của Tục Đế:

- Những danh xưng như “người nam”, “người nữ”, “tôi”, “anh” đều là quy ước, chứ theo Chân Đế thì không có thực thể cố định nào như thế.
- Các vật thể lớn như “núi”, “đất”, “nhà”, “làng” chỉ là cách gom nhiều sắc pháp lại rồi đặt tên.
- Những câu như “tôi thấy”, “tôi nghe” cũng chỉ là phương tiện nói; thực chất không có “tôi” đứng ra làm tác nhân, chỉ có các pháp hoạt động theo nhân duyên.
- Một căn nhà, một chiếc xe, cái lu, mảnh vải… đều là sự kết hợp của nhiều sắc pháp, rồi con người đặt tên cho tiện sử dụng.
- Ngay cả ví dụ “chiếc xe uống xăng nhiều” cũng chỉ là nói theo thói quen, chứ không có chiếc xe nào thật sự “uống” được.

2. Vì sao Tục Đế là vô ngã ?

Tục Đế chỉ là tập hợp tạm bợ của các yếu tố luôn thay đổi. Những gì tạo nên cái gọi là “con người” - năm Uẩn - đều vô thường, không có gì cố định. Không có một chủ thể đứng sau điều khiển các pháp. Khi quán sát kỹ, ta thấy mọi thứ chỉ đang vận hành theo duyên sinh. Vì vậy, tìm một “cái tôi” " cái ngã" cố định trong Tục Đế là điều không thể, bởi ngay chính các yếu tố cấu thành cũng luôn biến đổi.

3. Chân Đế và Níp-bàn

Tất cả những gì thuộc Tục Đế hay các pháp hữu vi đều sinh rồi diệt. Nhưng có một pháp vượt khỏi dòng sinh diệt ấy: Níp-bàn. A tỳ đàm mô tả Níp-bàn là pháp vô vi, không thuộc thân, không thuộc tâm, không do duyên tạo. Đó là sự tắt lặng hoàn toàn của phiền não, một trạng thái an ổn không sanh không diệt. Người tu không “làm ra” Níp-bàn. Khi các phiền não được đoạn trừ, trạng thái ấy tự hiện lộ - giống như lửa tự tắt khi không còn nhiên liệu. Con đường dẫn đến đó là Đạo và Quả siêu thế.

Nếu cần một hình ảnh đơn giản: “cái chén” là Tục Đế - chỉ là tên đặt cho sự kết hợp của đất, men và hình dáng. Nó không có thực tính riêng. Các yếu tố vật chất tạo nên nó mới là Chân Đế. Còn Níp-bàn là một loại Chân Đế đặc biệt: không thuộc vật chất, không thuộc tâm, chỉ được nhận biết khi phiền não đã dứt.

Các Yếu Tố Chân Đế:

- Sắc pháp: Đất có đặc tính cứng; Nước có tính kết dính; Lửa có tính nóng-lạnh; Gió có tính chuyển động. Khi chạm vào “tấm bảng đen”, cảm giác cứng-lạnh chính là sắc pháp, còn bản thân khái niệm “tấm bảng đen” chỉ là Tục Đế.
- Danh pháp: Tâm với chức năng “hay biết cảnh”; Tư Tác Ý (ý chí) là yếu tố dẫn động tạo tác; Thọ là cảm giác vui-buồn-trung tính phát sinh theo nhân đã tạo, không có cái “tôi” nào đứng ra cảm nhận.
- Níp-bàn: pháp vô vi, tĩnh lặng, không do duyên tạo, vượt ngoài các Uẩn. Tên gọi “Níp-bàn” cũng chỉ là quy ước, còn bản chất thì vượt ngoài ngôn ngữ.

Nhìn tổng thể, Tục Đế giúp ta giao tiếp và sinh hoạt thuận tiện, nhưng khi soi xét bằng trí tuệ, ta thấy chúng chỉ là những tên gọi tạm, dựa trên sự kết hợp của các yếu tố tối hậu. Còn Chân Đế là những pháp có thực tính, vận hành theo quy luật tự nhiên. Con đường tu học là nhìn xuyên qua lớp vỏ quy ước ấy để thấy rõ bản chất sinh -diệt trong từng khoảnh khắc.

-Nguồn: tổng hợp để tự học. Không có giá trị tham khảo.

Ghi chú: 125

#Tư #Cần #Niệm 




Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều