Tổng hợp các câu hỏi đáp từ sư thầy Tâm Hạnh
Bài 01: Thế nào là giác ngộ và giải thoát theo kinh tạng Nguyên thủy.
Bát Chánh Đạo – Con đường đưa đến chấm dứt khổ đau Bhikkhu Bodhi
Dịch Việt Tỳ khưu Tâm Hạnh, Phật tử Tâm Cảnh
Chứng đắc ở đây là giác ngộ và giải thoát.
Để hiểu thế nào về khái niệm giác ngộ và giải thoát, chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ các câu hỏi sau:
1/ Giác ngộ và giải thoát hay giải thoát và giác ngộ?
Câu trả lời, có giác ngộ mới giải thoát như có hiểu biết mới không bị lệ thuộc.
2/ Giác ngộ và giải thoát có tùy thuộc dân tộc, màu da, giới tính, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh, xuất gia hay tại gia, thời gian học và tu tập theo giáo pháp ngắn dài không?
Câu trả lời là không.
Theo những sự việc, câu chuyện được ghi lại trong kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta không khó nhận ra sự giác ngộ và giải thoát của các đệ tử của Đức Phật hoàn toàn không tùy thuộc vào dân tộc, màu da, giới tính, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh, xuất gia hay tại gia, thời gian học và thực hành giáo pháp ngắn hay dài.
3/ Như vậy, sự giác ngộ và giải thoát của mỗi cá nhân y cứ vào đâu?
Câu trả lời, từ những bài kinh trong chương X (sách Hợp Tuyển lời Phật dạy theo kinh tạng Pali), chúng ta có thể thấy họ giác ngộ và giải thoát từ phát nguyện nhận và giữ Tam quy, Năm điều, học đúng giáo pháp, cụ thể là Tứ Thánh Đế, 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo, nỗ lực vào chính bản thân, y cứ vào pháp ở trên, không y cứ vào ai cả.
4/ Như thế, họ đã giác ngộ những gì và giải thoát những gì?
Câu trả lời là,
A. Họ nhận ra, giác ngộ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ và không còn lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng, được gọi là bậc thánh Dự lưu hay Nhập lưu, vĩnh viễn không còn bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A tu la. Trong đời này, nếu chưa giải thoát sinh tử luân hồi, họ chỉ còn trở lại Dục giới tối đa 7 lần thì chấm dứt luân hồi.
B. Không còn thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, họ nhận ra, giác ngộ tham và sân, giải thoát một phần tham và sân, được gọi là bậc Nhất lai. Nếu chưa giải thoát luân hồi sinh tử trong đời này thì họ chỉ còn trở lại Dục giới một lần và chấm dứt luân hồi sinh tử.
C. Họ giác ngộ và giải thoát hoàn toàn thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân, được gọi là bậc Bất hoàn. Nếu ngay trong đời này, họ chưa giải thoát luân hồi sinh tử thì sau khi qua đời, sinh đến cõi Bất hoàn thiên và sẽ chấm dứt luân hồi sinh tử tại đó.
D/ Không còn 5 kiết sử trên, họ nhận ra giác ngộ về sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn vi tế, trạo hối, vô minh và không còn lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng thì được gọi là bậc A la hán hay Vô Sinh, ngay trong đời này chấm dứt hoàn toàn luân hồi sinh tử.
5/ Bằng cách gì họ nhận ra 10 loại kiết sử trên?
Câu trả lời, bằng cách học và hiểu đúng về chúng trên lý thuyểt, tiếp tục kiên trì chiêm nghiệm nhận ra chúng ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt của chính mình.
6/ Bằng cách gì không lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng?
Câu trả lời, học đúng lý thuyết và tiếp tục kiên trì thực hành Bát Chánh Đạo ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt của chính mình.
7/ Tại sao trong kinh tạng, Đức Phật thường dạy các Tỳ kheo hành thiền, giữ nhiều giới luật? Với hoàn cảnh sinh hoạt của người tại gia thì làm sao thực hành?
Câu trả lời, đây chính là vấn đề đã có nhiều ngộ nhận, cần hiểu cho đúng về tu tập trong sinh hoạt hằng ngày giữa người xuất gia và tại gia.
Với người xuất gia thì sinh hoạt hằng ngày của họ là học giáo pháp, hành thiền, giữ giới luật theo cộng đồng của họ vì không phải sinh hoạt, kinh doanh cho gia đình, xã hội, không lo về cơm áo gạo tiền.
Người tại gia thì sinh hoạt của họ là phải kinh doanh sinh kế với cơm áo gạo tiền cho bản thân, gia đình, xã hội. Thế nên, họ học và thực hành giáo pháp ngay trên sinh hoạt của họ. Nếu người tại gia tập trung thời gian ngồi thiền, giữ luật thì làm sao phục vụ bản thân, gia đình, xã hội và sẽ đưa đến gia đình tan vỡ.
Đức Phật dạy 4 pháp đưa đến hạnh phúc cho người tại gia trong hiện tại là: có nghề nghiệp làm ăn, giao du bạn tốt, biết quản lý tài sản làm ra, biết cân đối thu chi trong sinh hoạt; và cho tương lai là: tận tín Tam bảo, thọ trì Năm điều học, bố thí cúng dường, học giáo pháp, hiểu Tứ Thánh Đế trong đời sống (Tín, giới, thí, văn, tuệ).
Nếu chịu khó đọc kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta sẽ thấy Đức Phật không chú trọng dạy hành thiền, giữ luật cho người tại gia như cho các vị Tỳ kheo mà dạy họ tu tập ngay trên sinh hoạt của họ. Sau khi gặp Đức Phật, nghe pháp, một người Phật tử tại gia vẫn sinh hoạt như trước nhưng với Ba quy y, Năm điều học và nhận thức đúng pháp.
Thế nên, nếu người xuất gia mà không sinh hoạt trên trách nhiệm học giáo pháp, hành thiền mà làm những việc như kinh doanh, xây dựng... ; người tại gia cư sĩ lại cố gắng tu tập, hành thiền, giữ luật theo sinh hoạt của người xuất gia thì đã đi lạc đường.
Như thế, tuy khái niệm về sự giác ngộ và giải thoát thật khó khăn và xa lạ với chúng ta nhưng qua kinh tạng Nguyên thủy thì chúng đang ở ngay dưới chân chúng ta nếu chúng ta học đúng, hiểu đúng, chiêm nghiệm thực hành ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ từ sinh hoạt bình thường của chính mình mà không cần làm gì thêm nữa, thì sự giác ngộ và giải thoát đang có mặt với chúng ta.
Bài 2: Nhận ra, xử lý 5 hạ phần kiết sử bằng Bát Chánh Đạo.
Câu hỏi: Thưa thầy, là một Phật tử với đời sống đầy lo toan, bận rộn, trách nhiệm, bổn phận với công việc cho bản thân, gia đình, xã hội; như vậy, bằng cách cụ thể gì chúng con có thể nhận ra 5 hạ phần kiết sử (giác ngộ) và thực hành bằng Bát Chánh Đạo để không còn lệ thuộc chúng (giải thoát)?
Trả lời:
1/ Đầu tiên, chúng ta phải học và hiểu thật đúng ý nghĩa nội hàm (connotation) trên lý thuyết về 5 hạ phần kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân; về tám thành tố của Bát Chánh Đạo.
2/ Tạm thời gát các sinh hoạt theo tín ngưỡng tôn giáo qua một bên, kể cả việc cố gắng ngồi thiền, các hình thức sinh hoạt như những người xuất gia. Không cần làm thêm bất kỳ sự tu tập gì có hình thức.
3/ Giữ Ba quy y và Năm điều học trong sạch. Nếu vi phạm thì tự can đảm nhận ra và tự sám hối.
4/ Từ khi thức dậy, đánh răng, ăn sáng, làm việc... cho đến khi đi ngủ, luôn luôn lặng lẽ ghi nhận và quan sát hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình (không cần cố gắng gì cả).
Về lời nói, hành động:
Khi nhận ra lời nói, hành động nào sẽ phát ra hay đang nói, đang làm từ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham hay sân thì dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng ngăn lại. Nếu đã nói, đã làm thì dùng chánh kiến, chánh tư duy nhận ra các nghiệp ác đã nói, đã làm. Chỉ cần nhận ra và quan sát chúng, không cần làm thêm gì cả vì chúng tự sinh tự diệt theo ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
Về ý nghĩ:
Khi nhận ra ý nghĩ bất thiện nào phát sinh từ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham, sân thì dùng chánh tinh tấn dừng lại, dùng chánh niệm, quán tâm hay quán pháp trên Tứ Niệm Xứ để quan sát, nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên chúng, dùng chánh định để hóa giải, ly dục ly bất thiện pháp, không còn lệ thuộc.
5/ Chú ý quan trọng, khi thực hành không cố gắng gì cả, không mong kết quả gì cả, ngay khi nhận ra, quan sát chúng và xử lý bằng Bát Chánh Đạo thì chính là kết quả.
Bắt đầu và tiếp tục, tiếp tục bắt đầu...
Bài 3: Học và thực hành Phật học, Phật tử nên học và thực hành những gì?
Câu hỏi: Thưa thầy, chúng con được các bạn đạo giới thiệu, khuyến khích nên:
Học Duy thức học,
Học Vi diệu pháp,
Đi sang Miến Điện học và hành thiền.
Đến các trường thiền tham dự các khóa thiền Tứ Niệm Xứ... dài ngày.
Gặp các vị thầy nổi tiếng để khai ngộ vv và vv...
Thưa thầy, chúng con rất hoang mang, một phần vì nhiều thông tin khác nhau, không biết nên học gì, đi đến đâu; một phần vì hoàn cảnh hiện nay phải lo cho bản thân, cha mẹ, chồng, vợ, con nên không có thời gian để học các môn học đó và cũng chưa rời khỏi gia đình được; một phần điều kiện kinh tế hiện nay và thời gian của chúng con chưa cho phép học hay làm theo những giới thiệu trên, dù có muốn. Xin thầy có thể gợi ý trong lúc này, chúng con nên làm gì?
Trả lời:
Chào các bạn. Tôi đã từng học và dạy cho các tăng ni các môn học trên ở trường Phật học nhưng mục đích học để có kiến thức, làm bài tập, thi cử, lấy bằng cấp chứ chưa biết vị nào có thực hành và có kết quả hay không.
Tôi cũng đã từng ở trường thiền ở Miến Điện nhưng chỉ học được cách tổ chức rất hay của họ. Nếu chưa có căn bản đúng về pháp học, nhất là kiến thức đúng về Tứ Niệm Xứ, 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo mà vào sinh hoạt ở các trường thiền thì cũng như đi một kỳ an dưỡng với sinh hoạt mang hình thức tôn giáo. Những nơi đó, thường thì, họ không dạy pháp học mà chỉ thực hành, trình pháp. Trong môi trường "KHÔNG ai làm phiền mình, yên lặng, không tiếp xúc, không làm việc gì cả, chỉ thiền hành và thiền tọa" thì những ngộ nhận về tu chứng sẽ dễ dàng xảy ra cho thiền sinh. Nếu không học kiến thức về lái xe thì làm sao tập lái xe cho đúng, ngoài cảm giác thích thú ngồi trong xe. Chưa nói đến, với cái nhìn của cá nhân, tôi tự hỏi, một đất nước mà nhìn ở đâu cũng thấy chóp tháp chùa, tăng ni khắp nơi, trường thiền khắp nơi, những người lãnh đạo đều là Phật tử, đã từng sinh hoạt trong các môi trường Phật giáo nhưng tại sao tình hình chính trị trên đất nước của họ rất phức tạp, bất ổn.
Thế nên, tôi cũng chẳng biết nên khuyên các bạn học gì, theo ai. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nơi để trả lời các câu hỏi trên. Chúng ta xem lại Đức Phật đã giới thiệu giáo pháp của Ngài cho chúng ta như thế nào.
Nguyên văn Pāli: "Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccttam veditabbo viññūhī 'ti."
Từ ngữ Pāli _ Việt
Svākkhāta: giảng dạy hoàn hảo, trọn vẹn.
Akkhati: giảng dạy
Dhamma: giáo pháp
Bhagavato: Đức Thế Tôn
Sandiṭṭhika: ngay ở đây, thiết thực
Akālika: ngay hiện tại, phi thời gian.
Ehipassika: hãy tự nhận ra, tự đến để thấy, mời gọi đến để nhận ra.
Passati: thấy, nhận ra
Opanāyika: hướng thượng.
Paccattam: tự mình, mỗi người, cá nhân
Veditabba: nhận thức, hiểu rõ
Viññū: người hiểu biết, người có trí.
Đoạn kinh văn trên, có nhiều bản dịch Việt, lấy ý chung, có thể tạm dịch,
" Các pháp mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng một cách hoàn hảo. Pháp ấy đang có ngay ở đây, ngay trong hiện tại, hãy tự thấy ra, nhận ra, có khả năng hướng thượng, người có hiểu biết tự mình nhận ra."
Bản dịch Anh ngữ của ngài Boddhi:
"The Buddha says that the Dhamma, the ultimate truth of things, is directly visible, timeless, calling out to be approached and seen... (He says further that it is always available to us, and that the place where it is to be realized is within oneself)."
(The Noble Eightfold Path _ page 75. Bản dịch Việt Bát Chánh Đạo của chúng tôi trang 157).
Theo đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy, Đức Phật dạy rằng, giáo pháp mà Ngài đã dạy "luôn luôn đang có mặt chung quanh" chúng ta, đang mời gọi chúng ta thấy, nhận ra, không cần đi đâu cả.
Bước đầu, các bạn có thể học đúng trên lý thuyết về Tứ Thánh Đế, 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ là những giáo pháp căn bản do Đức Phật dạy làm nền tảng cho tất cả các truyền thống, tông phái Phật giáo đã và đang có mặt trên thế giới.
Chúng ta học các giáo pháp trên với 3 bước.
Bước 1, thuộc và hiểu đúng ý nghĩa căn bản của chúng theo từ vựng, nên tham khảo ý nghĩa theo Sanskrit và Pāli, thêm English cho rõ. Nếu được, các bạn nên tra cứu ở các từ điển Phật học đáng tin cậy. Nên tham khảo các vị thầy "có chuyên môn" về lĩnh vực này.
Bước 2, nhận ra các giáo pháp ấy ngay trong đời sống của chính mình; giống như Đức Phật đang dạy trực tiếp cho mình.
Bước 3, chiêm nghiệm, áp dụng kiến thức về giáo pháp đã học ngay trên sinh hoạt bình thường hằng ngày của chính mình mà KHÔNG CÓ bất cứ hình thức tôn giáo, giáo điều, khuôn mẫu gì cả ĐỂ NHẬN RA PHÁP.
Ví dụ, NGAY trên sinh hoạt của CHÍNH MÌNH, các bạn có thể nhận ra PHÁP như là tham, sân, si, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, thân, thọ, tâm, pháp, yếu tố nào trong 37 phẩm trợ đạo, đế nào trong Tứ Thánh Đế, thành tố nào trong Bát Chánh Đạo NGAY KHI các bạn ĐANG thấy, nghe, ăn, ngửi, tiếp xúc, nói, hành động, suy nghĩ vv.vv...
Đây chính là "nhờ vào giáo pháp, tự mình nhận ra pháp, thấy pháp ngay ở đây và bây giờ".
Đức Phật dạy: "Ai thấy Pháp là thấy Ta. Ai thấy Ta là thấy Pháp."
Mà, tham, sân, si cũng là Pháp.
Chúc các bạn học và nhờ giáo pháp, tự mình nhận ra pháp ngay trong chính sinh hoạt của mình mà không cần đi tìm ở đâu cả.
Bài 4: Học và thực hành giáo pháp với tập thể hay tự mình.
Chào các anh chị trong lớp học. Sáng nay, có bạn nhắn tin hỏi tôi với câu hỏi trên. T xin chia sẻ theo ý kiến riêng của cá nhân.
Về học Phật học, chúng ta nên học tập thể, qua trường lớp hay với các vị thầy chuyên môn về các môn học Phật học mà chúng ta cần học nhưng về tu tập thì hoàn toàn theo cá nhân. Mỗi người chúng ta đều có một bài toán đời với thất tình lục dục, tình tiền vui khổ với hoàn cảnh khác nhau theo cuộc sống của riêng ta. Để tìm ra đáp án cho cuộc đời riêng mình theo công thức mà Đức Phật đã dạy nhưng không ai giống ai cả thì không thể tập trung vào một chỗ, cùng giải theo một cách, với những bài toán đời khác nhau. Có nghĩa là, dùng công thức giống nhau nhưng giải các bài toán khác nhau, đáp án khác nhau thì không thể tập trung lại và làm giống nhau.
Hiện nay, trên mạng xã hội, có quá nhiều giảng sư về đủ thể loại bộ môn về Phật pháp cả pháp học và pháp hành. Trăm hoa đua nở.
Chúng ta có thể tạm chia tất cả trăm hoa vào ba nhóm.
1/ Nhóm theo dạng thuyết pháp chung chung kiểu đưa đạo đức tâm lý lồng vào thơ văn, ca hát, câu chuyện vui, hài hước nhưng không chuyên môn về Phật học, không chiều sâu, không mang kiến thức nghiên cứu, trường lớp về Phật học mà chủ yếu xoa dịu tâm lý quần chúng, đáp ứng được nhu cầu giảm stress, làm người nghe thích thú, vui, có cảm giác giải tỏa tâm lý trong nhất thời, được gãi ngứa, như đi xem nghe một buổi ca nhạc hay diễn thuyết mang hình thức tôn giáo. Nhóm này được đa số quần chúng theo, ngưỡng mộ. Tuy cách thuyết giảng của họ theo mặt nổi, theo cách đạo đức tâm lý học, không có chiều sâu về Phật học nhưng giá trị ở chỗ đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, niềm vui nhất thời cho số đông không cần học hay thực hành Phật học để giải quyết triệt để các nỗi khổ đau. Tuy nhiên, sau những niềm vui, sự thoải mái nhất thời đó, từ hữu ái, hoại khổ xuất hiện.
2/ Nhóm theo dạng thuyết giảng bằng kiến thức theo sách vở Phật học, từ kinh điển, từ Abhidhamma hay từ sách theo truyền thống của họ, nhưng những kiến thức Phật học đó thuộc về trường lớp, chuyên môn, hàn lâm, dành cho nghiên cứu, cho tăng ni, khó hiểu và xa lạ với đời sống thực tế của quần chúng. Người dạy và người học vẫn nghĩ là hiểu nhưng thật sự họ chỉ tin vì có ai biết rõ các tâm đang hoạt động với nhau như thế nào hay chỉ suy diễn, hay chỉ tin theo các bài học có trong sách, ai biết 1 sát na là bao lâu, tại sao 17 sát na mà không 16, 18 sát na, tại sao 16 tuệ minh sát mà không 14, tại sao những tư liệu này kinh tạng Nguyên thủy không có, họ tin theo sách nhưng nghĩ là hiểu. Có vị hô hào tu tập là phải diệt trừ vô minh, ái, thủ, tham, sân, si... nhưng không nói lên được vô minh,... , si nghĩa là gì và làm sao diệt được. Mà vô minh,... , tham, sân, si trong mỗi người lại tùy theo lúc nào, ở đâu, với ai mà thể hiện khác nhau thiên hình vạn trạng, không giống như trong bài học, sách vở. Trong Phật học, khái niệm "diệt" vô minh, ái, thủ, tham, sân, si (như Diệt đế) không có nghĩa là "tiêu diệt" như một động từ trong Việt ngữ mà "diệt" theo nội hàm Pāli là Nirodha (Hán ngữ 滅, English cessation, remainderless) có nghĩa là không còn tồn tại, chấm dứt, không lệ thuộc. Thế thì, theo Phật học khái niệm "diệt" vô minh, ái, thủ, tham, sân, si không phải là "tiêu diệt" chúng mà là học hiểu và tu tập nhận ra chúng ở chính ngay lời nói, hành động, ý nghĩ của mình mà khống chế, chuyển hóa theo Bát Chánh Đạo, không còn lệ thuộc chúng nên chúng không còn tồn tại với chính mình. Nếu hiểu diệt phiền não với nghĩa tiêu diệt chúng thì có nghĩa là bị "đánh tráo" khái niệm từ sự thiếu hiểu biết về Phật học.
Vì giảng dạy có cơ sở từ sách Phật học chuyên môn nên nhóm này có cả tu sĩ và cư sĩ dạy, được quần chúng ngưỡng mộ, tôn trọng về kiến thức Phật học của họ. Tuy nhiên, các môn học thường mang tính cách kiến thức hàn lâm, chuyên môn, cao cấp, xa lạ, không thực tế, không áp dụng được trong sinh hoạt, ngoài niềm tin nhưng người học thấy có lý, có trong sách Phật học, nên nghĩ là hiểu mà không biết là tin theo nhận thức của họ. Thế rồi, vì thuộc nhiều kiến thức chuyên môn mang màu sắc tôn giáo, họ dễ dàng tưởng mình đã chứng đắc gì gì đó. Khi trở về cuộc sống đời thường, với gia đình, họ tự mâu thuẫn với chính họ, gia đình và những người chung quanh vì học kiến thức Phật học theo sách một đàng mà đời sống thực một nẻo. Thế là, phi hữu ái phát sinh, khổ khổ xuất hiện.
3/ Nhóm theo dạng nỗ lực tu tập, hướng dẫn một số quần chúng theo những gì họ đã tiếp thu ở nước ngoài. Không bằng lòng với sự tu tập bình thường trong nước, họ ra nước ngoài, tu tập ở các trung tâm thiền vài tháng, vài năm, giữ giới nghiêm túc, nỗ lực chuyên cần hành thiền theo sự hướng dẫn của vị thầy nào đó. Sau khi nghĩ rằng đã có khả năng, sở đắc, sở chứng, họ trở về quê nhà với hoài bão, niềm tin sẽ giới thiệu, hướng dẫn, khai hóa cho những người ở quê nhà đang tu sai, chưa biết tu tập giải thoát "theo Chánh pháp". Trong số này, ngoại trừ những vị có kiến thức, khả năng vững chắc về pháp học, được đào tạo nghiêm túc từ các trường lớp Phật học chính quy, số còn lại thì chỉ biết làm theo những gì từ người hướng dẫn nhưng thường tin mà không hiểu vì không có căn bản Phật học. Ở nước ngoài, họ copy một số kiến thức, sinh hoạt, tổ chức ở một số trung tâm thiền mà họ chỉ ở đó, rồi cho đó mới là tu tập đúng, chân truyền chánh pháp. Trong số này, có những người copy lại bản copy tu học không đúng mà không biết, lại tin là số một nên mang về quê nhà tận lực truyền bá, giống như họ chỉ ăn ở một quán phở rồi bảo quán đó ngon nhất, ngồi ghế trong nhà mình và tưởng nhà bên cạnh ngồi dưới đất. Thế nên, cách sinh hoạt và hướng dẫn của họ mang nặng hình thức văn hóa tín ngưỡng Phật giáo của quốc gia mà họ học nhưng lại cho là chánh pháp. Nhóm này thường được một số Phật tử mới tiếp cận Phật giáo Theravāda và một số phật tử Bắc tông sùng thượng, tin theo vì sự hấp dẫn trên hình thức sinh hoạt với vẻ thánh thiện, nghiêm túc của họ. Từ niềm tin đó, phát sinh một số người có cái nhìn tiêu cực về sự tu tập của tăng ni cả hai truyền thống ở Việt Nam.
Nếu có dịp, tiếp cận sinh hoạt và sự hướng dẫn của họ, như phải ngồi thiền theo kiểu thế này, kiểu thế kia, như phải bán già hay kiết già, phải tay phải trên tay trái, phải chánh niệm khi đi, khi ăn, khi ngồi vv và vv... tất cả thiền sinh phải sinh hoạt như tu sĩ ở đất nước mà người hướng dẫn đã ở, đã học. Họ hướng dẫn thiền sinh chú trọng nhiều thời gian hành thiền Tứ Niệm Xứ theo tư thế ngồi như họ đã được học từ người hướng dẫn họ cho mọi người.
Khách quan, chúng ta có thể nhận ra:
A. Nếu ngồi thiền phải với tư thế kiết già, bán già, tay phải hay trái đặt trên thì những người bị cụt chân, cụt tay không ngồi thiền được hay sao?
B. Hô hào, kêu gọi mọi người phải hành thiền, đi đứng nằm ngồi, ăn uống, nói năng trong chánh niệm như khẩu hiệu. Thế thì, có nghĩa là mọi người "đã có chánh niệm" và áp dụng khả năng chánh niệm đó vào sinh hoạt???!!! Thưa không!
Chúng ta xem lại tiêu đề của kinh Tứ Niệm Xứ _ Trung Bộ Kinh 10, Pāli là Satipaṭṭhāna,
sati là niệm, paṭṭhāna nghĩa là thành lập, English là establishment, foundation, trong ngữ cảnh này được dịch Việt là thành lập, thiết lập niệm hay chánh niệm.
Gần đây, từ Vipassanā, English : insight, Việt : minh sát, thường dùng để chỉ cho việc thực hành Tứ Niệm Xứ để có chánh niệm. Từ hai nguồn trên, chúng ta có thể nhận ra, học và thực hành Tứ Niệm Xứ trên thân thọ tâm pháp, có nghĩa là CHƯA CÓ chánh niệm mà ĐANG THÀNH LẬP, XÂY DỰNG chánh niệm. Thế thì, đang học, thực tập để xây dựng chánh niệm mà hô hào mọi người DÙNG chánh niệm trong sinh hoạt, thiền tập???!! Như thế, khác nào ĐANG tìm cách mua xe, chưa có xe mà bảo sử dụng xe định mua để đi mua xe.
C. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật giới thiệu 21 cách để thành lập, xây dựng chánh niệm. Cụ thể, niệm thân 14, niệm thọ 1, niệm tâm 1, niệm pháp 5 . Trong 21 cách này, chỉ có niệm hơi thở trong phần niệm thân, Đức Phật đề cập đến tư thế ngồi. Hai mươi cách còn lại, có thể áp dụng các tư thế khác nhau.
Thế thì, ở đâu ra chuyện thực hành Tứ Niệm Xứ chú trọng và gần như là với tư thế ngồi. Như thế, từ một phương pháp thực tiễn, tất cả mọi người có thể áp dụng cho sinh hoạt của đời sống, họ biến thành cách sinh hoạt mang hình thức tôn giáo, dành cho sinh hoạt như tu sĩ, xa rời sinh hoạt cá nhân, gia đình, xã hội, tự dựng ra phương pháp cục bộ, không đúng lời Đức Phật dạy, mà không biết.
Thế là, cả người hướng dẫn và người học cùng nhau cố gắng nhiệt tình thực hành những phương phâp tự suy diễn để "mong muốn" mau mau giác ngộ, giải thoát theo khái niệm của họ, hành khổ xuất hiện.
Kết,
Tùy theo nhu cầu, hoàn cảnh, các bạn có thể tham khảo, học với cả ba nhóm trên nhưng tu tập thì phải tự cá nhân của mình.
Tự tu như thế nào?
Học và hiểu đúng về Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo.
Giữ Ba quy y, Năm điều học (học, hiểu, thuộc lòng 5 yếu tố cho mỗi điều học).
Tạm ngưng các sự tu tập mang hình thức tôn giáo, giáo điều cục bộ, tập thể.
Tự mình nhận ra tham, sân, si, tà kiến, ngã mạn từ lời nói, hành động, ý nghĩ của mình trong sinh hoạt.
Đối với bên ngoài, dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng để khống chế lời nói, hành động ác.
Đối với ý nghĩ xấu ác nội tâm, dùng chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định để nhận ra, khống chế, hóa giải, không lệ thuộc.
Soi sáng hành động, lời nói, ý nghĩ đang tạo nghiệp thiện hay ác bằng chánh kiến, chánh tư duy.
Trước khi nhập Đại Niết Bàn, Đức Phật dạy rõ, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, y cứ vào chính mình, y cứ vào pháp, không y cứ vào ai cả.
Đây là câu Đức Phật trả lời cho các bạn.
Bài 5: Bằng cách gì tu tập, nhận ra pháp ngay khi đang nói, hành động, suy nghĩ trong sinh hoạt.
Câu hỏi: Thưa thầy, qua những bài đọc trên FB của thầy, con vẫn chưa hiểu thế nào là tu tập ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ. Xin thầy hướng dẫn.
Trả lời:
Chào bạn,
Nếu thực sự có nhu cầu thực hành, bạn chịu khó chiêm nghiệm, thực hành theo các bước sau:
1/ Tạm thời gát một bên tất cả sinh hoạt theo HÌNH THỨC tín ngưỡng tôn giáo, ăn mặc bình thường, không cần thể hiện sự tu tập gì cả.
2/ Thọ trì nghiêm túc Ba quy y và Năm điều học.
Học, hiểu, thuộc 5 điều học và mười nghiệp ác.
Học, hiểu, thuộc 5 yếu tố cho mỗi điều học.
Ví dụ:
5 yếu tố phá vỡ điều học không sát sinh, tạo ác nghiệp sát sinh:
a. Sinh vật đang sống,
b. Biết sinh vật đó đang sống,
c. Cố ý _ cetana_ volition _ với tham, sân hay si,
d. Tự mình, tạo mọi điều kiện, sai bảo người khác giết sinh vật ấy,
e. Tâm thỏa mãn khi biết sinh vật ấy chết do ý muốn của mình.
Ngay khi phá vỡ điều học (giới) không sát sinh thì hình thành nghiệp đạo ác sát sinh và âm thầm đưa đến quả báo khi đủ điều kiện.
Đối với 4 điều học còn lại cũng tương tự.
Giới được xây dựng trên việc tránh xa nghiệp ác nên muốn giữ giới phải hiểu nghiệp ác.
Ví dụ điều học: tránh xa sự nói dối. Pāli: musā-vādā (nói dối) veramaņī (tránh xa). English: to asbtain (tránh xa) from false speech (lời nói dối trá).
Muốn học đầy đủ thì liên lạc BĐH lớp học gửi cho link đã học về chủ đề này.
3/ Chiêm nghiệm thực hành về các chủ đề: Duyên khởi, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Đế, thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân ngay trong sinh hoạt với thấy, nghe, ngửi, ăn, tiếp xúc, hành động, làm việc, nói, suy nghĩ.
Chúng ta có 6 giác quan, 6 đối tượng đưa đến 6 nhận thức. Ví dụ: con mắt, hình dáng màu sắc đưa đến thấy...
Trong bài học này, chúng ta chọn ĐANG thấy, ĐANG nghe NGAY KHI nói, hành động, suy nghĩ để ví dụ. Từ đó, các bạn suy luận ra sự tu tập trên hoạt động của các giác quan khác.
Chiêm nghiệm tu tập khi ĐANG THẤY gồm 3 điều kiện: con mắt <+> hình dáng màu sắc => thấy.
Bài A. Quan sát, nhận ra từ Duyên khởi:
Cái này CÓ nên cái kia CÓ.
Cái này SINH nên cái kia SINH.
Cái này KHÔNG nên cái kia KHÔNG.
Cái này DIỆT nên cái kia DIỆT.
Con mắt và màu sắc hình dáng CÓ thì mới CÓ thấy.
Mắt và màu, hình hợp tác SINH nên phát SINH sự thấy.
KHÔNG có mắt và hình sắc thì KHÔNG có thấy.
Mắt không hợp tác DIỆT với hình màu thì không còn DIỆT thấy.
Đối với các giác quan khác, nói, hành động, suy nghĩ trong sinh hoạt tự thân, gia đình, xã hội cũng chiêm nghiệm như vậy. Nhận ra chúng chỉ là các yếu tố liên đới theo các điều kiện, không có ta, của ta, tự ngã của ta... từ từ nhận ra thân kiến hay ngã kiến, không còn lệ thuộc nó, sống hòa hợp với chính mình, gia đình và xã hội.
Bài B. Tứ Niệm Xứ:
Thành lập, nuôi dưỡng, phát triển tâm sở niệm => chánh niệm. Bằng cách:
a. Quán thân trên thân để nhận ra SẮC UẨN: nhận ra, quan sát KHI ĐANG thấy, đang nghe hay đang tiếp xúc mềm cứng nóng lạnh nặng nhẹ là ĐANG nhận ra sắc uẩn.
b. Quán thọ trên thọ để nhận ra THỌ UẨN: ghi nhận, quan sát cảm giác dễ chịu, khó chịu, trung tính khi ĐANG thấy, ĐANG nghe là ĐANG nhận ra thọ uẩn.
c. Quán tâm trên tâm để nhận ra HÀNH UẨN VÀ THỨC UẨN: NGAY KHI ĐANG thấy, nghe... quan sát, ghi nhận tâm tham hay không tham, sân hay không sân, si hay không si, tập trung hay không tập trung... phản ứng TỪ cảm giác (thọ uẩn) và thông tin (tưởng uẩn). Đó là ĐANG nhận ra hành uẩn và thức uẩn. Thấy, nghe... thuộc về thức uẩn, tham sân si... thuộc về hành uẩn.
c. Quán pháp trên pháp để nhận ra TƯỞNG UẨN với năm triền cái và Tứ Thánh Đế.
NHẬN RA, QUAN SÁT
_ Năm triền cái khi ĐANG thấy:
Đang thấy nhưng không ghi nhận rõ là "hôn trầm" triền cái.
Đang thấy với phân vân là "nghi" triền cái.
Đang thấy với bực mình, tức giận là "sân" triền cái.
Đang thấy với lo lắng lo sợ, hối hận là "trạo hối" triền cái.
Đang thấy với tham muốn, dục vọng là "dục" triền cái.
_ Nhận ra, quan sát Tứ Thánh Đế khi đang thấy _ Thánh Đế Hiện Quán: nhận ra
Đang thấy với khổ khổ, hoại khổ hay hành khổ là ĐANG nhận ra Khổ đế.
Đang thấy với tà kiến hay phi hữu ái, hữu ái, dục ái hay dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ là ĐANG nhận ra Tập đế.
Đang thấy bằng tỉnh giác, chánh niệm, vv... là ĐANG nhận ra Đạo đế.
Đang thấy nhưng không lệ thuộc tướng chung, tướng riêng, vắng mặt, không có ba khổ trên là ĐANG nhận ra Diệt đế.
Như thế,
Quán thân nhận ra sắc uẩn,
Quán thọ nhận ra thọ uẩn,
Quán tâm nhận ra hành uẩn, thức uẩn,
Quán pháp nhận ra tưởng uẩn.
Nhận ra 5 uẩn THÌ MỚI nhận ra vô thường, khổ, vô ngã, không còn thân kiến, vắng mặt đau khổ - "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách."
Bài C. Nhận ra, quan sát 5 hạ phần kiết sử: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham hay sân NGAY KHI ĐANG thấy: nhận ra
Đang thấy với thân kiến là nhận ra kiết sử thân kiến.
Đang thấy với hoài nghi là nhận ra kiết sử hoài nghi.
Đang thấy với giới cấm thủ là nhận ra kiết sử giới cấm thủ.
Đang thấy với tham là nhận ra kiết sử tham.
Đang thấy với sân là nhận ra kiết sử sân.
Tương tự như vậy, chúng ta nhận ra các pháp NGAY trên KHI ĐANG nghe, ăn, ngửi, nói, hành động, suy nghĩ.
Chỉ cần nhận ra (không phải suy nghĩ về) đúng chúng, chúng tự sinh tự diệt. Đó là chánh niệm.
Ghi chú quan trọng,
1/ Trình độ, căn cơ, hoàn cảnh mỗi người không giống nhau, chúng ta học tự thực hành theo cách riêng của mình, KHÔNG copy, KHÔNG lệ thuộc ai cả.
2/ Chiêm nghiệm thực hành ngay trong sinh hoạt bình thường hằng ngày, KHÔNG cố gắng thức khuya dậy sớm để tu hành thêm gì cả, KHÔNG tạo hình thức tu tập. Chỉ cần nhận ra, quan sát các phiền não, kiết sử, không cần cố gắng diệt trừ chúng vì chúng tự sinh, tự diệt theo quy luật duyên khởi với ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
3/ Không tạo ảo tưởng về mình, thần bí hóa, thần thánh hóa, về sự tu tập của mình, về chứng đắc gì cả. Nếu càng tu tập mà càng thành thật, càng khiêm tốn, càng bình thường hóa, càng dễ chịu, càng vui vẻ, thoải mái, càng thân thiện, càng thân cận với chính mình, gia đình và mọi người, không còn muốn cải tạo ai nữa, nhận ra tham sân si, tà kiến, ngã mạn của chính mình là tu tập đúng, có kết quả.
4/ Đối với lời nói, hành động thì dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Đối với tâm ý thì dùng chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Đức Phật dạy: "Thấy Pháp là thấy Ta, thấy Ta là thấy Pháp".
Trong ngữ cảnh này, Ta không phải chỉ cho cá nhân của Ngài mà là sự giác ngộ, giải thoát.
Pháp chỉ cho chân đế hữu vi và vô vi.
Tham, sân, si... là chân đế hữu vi.
Như vậy, có nghĩa là, khi tu tập nhận ra (không phải nghĩ về) tham, sân, si ngay trên thân, miệng, ý là đang nhận ra giác ngộ, giải thoát.
Chúc các bạn nhận ra phiền não (tham, sân, si) là đang nhận ra bồ đề (Bodhi_ giác ngộ).
Bài 6: Ba cửa giải thoát.
Câu hỏi: Thưa Thầy, qua những bài viết ngắn của thầy, dần dần con nhận ra bản đồ cho hành trình tu tập ngay trong sinh hoạt. Tuy nhiên, con có câu hỏi: Nhận ra vô thường, khổ vô ngã để làm gì trên con đường hướng đến đạo quả Dự lưu?
Trả lời:
Thưa bạn, thú thật, câu hỏi này, ngoài kinh nghiệm cá nhân, tôi phải nhờ vào kiến thức Phật học đã học, cụ thể là diễn giải, copy theo tài liệu Phật học chuyên môn.
Để có đáp án cho câu hỏi này, các bạn có thể tham khảo từ hai tài liệu thuộc tạng Abhidhamma _ A tỳ đàm _ Thắng pháp, Đối pháp, Vi diệu pháp của cả hai truyền thống Nam tạng và Bắc tạng, Theravāda với tác phẩm Thắng pháp tập yếu luận _ Abhidhamma Sangaha của ngài Anuruddhā, chương 9 _ Nghiệp xứ và Nhất thiết hữu bộ với tâc phẩm A tỳ đạt ma Câu xá của ngài Thế Thân, phẩm Định và phẩm Trí.
Ở đây, để giải thích, tôi chỉ dùng Thắng pháp tập yếu, tham khảo và kết hợp bản dịch Thắng pháp tập yếu của ngài Minh Châu, bản dịch Toát yếu Vi diệu pháp của Phạm Kim Khánh, A manual of Abhidhamma _ Ven. Narada và bản Vi diệu pháp nhập môn, phần cuối cùng, của ngài Giác Chánh.
Tôi cố gắng diễn đạt ý chính, ngắn gọn, dễ hiểu cho người mới làm quen về văn học Phật học chuyên môn này CÓ KHÁI NIỆM về lộ trình của bậc Dự lưu. Với các thuật ngữ Phật học, tôi thêm Pāli và English để có cơ sở về ý nghĩa gốc và dễ hiểu cho người biết Anh ngữ.
Theo các bài viết trước của chúng tôi, chúng ta thực hành Tứ Niệm Xứ bằng cách ghi nhận, quan sát các hoạt động trên thân, thọ, tâm, pháp để xây dựng, thành lập niệm + tỉnh giác => chánh niệm, nhận ra năm uẩn. Cụ thể:
Quán thân trong thân, nhận ra sắc uẩn.
Quán thọ trong thọ, nhận ra thọ uẩn.
Quán tâm trong tâm, nhận ra hành uẩn và thức uẩn.
Quán pháp trong pháp, nhận ra tưởng uẩn.
Tại sao phải nhận ra năm uẩn?
Chúng ta KHÔNG thể nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên những khái niệm về mình (tục đế) từ năm THỦ uẩn mà chỉ nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên năm uẩn (chân đế).
Ví dụ, nếu chúng ta không thấy chiếc xe đang chạy thì không nhận ra sự di chuyển của chiếc xe.
Khi nhận ra:
Vô thường (anicca _ impermanence) thì đi vào tùy quán (ānu: liên tục, lặp đi lặp lại) vô thường (Aniccānupassanā _ the contemplation on impermanence) nhận ra các hiện tượng được nhận thức từ năm THỦ uẩn đều chỉ là thông tin do tưởng uẩn cấu tạo, sẽ đi vào vô tướng giải thoát môn, không còn bị lệ thuộc vào các điên đảo từ các khái niệm tục đế. (Ba điên đảo về tướng: tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo).
Khổ (Dukkhā _ unsatisfactory) thì đi vào tùy quán khổ (Dukkhānupassabā _ the contemplation of unsatisfactory) nhận ra tất cả năm uẩn luôn luôn mâu thuẫn nhau, không đồng nhất, luôn nghịch nhau sẽ đi vào vô nguyện hay vô tác giải thoát môn, không còn dục vọng theo ý mình.
Vô ngã (Anattā _ non-self) thì đi vào tùy quán vô ngã (Anattānupassanā_ the contemplation of non-self) sẽ đi vào Không tánh giải thoát môn, nhận ra sự vận hành của năm uẩn đều là quan hệ theo duyên khởi, không có cá thể nào điều động cả, không còn ảo tưởng về thân kiến, ngã kiến.
Đến cấp độ này, vị ấy không còn thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ, là bậc thánh Dự lưu (Sotāpanno).
Ghi chú quan trọng:
Ở đây, "khổ _ dukkhā" trong ba trạng thái (mark : sự biểu hiện) vô thường, khổ, vô ngã thường bị hiểu NHẦM với nghĩa "đau khổ".
Chữ Dukkhā tùy theo văn cảnh mà ý nghĩa khác nhau.
Như chúng ta đã học, pháp chân đế chia thành chân đế hữu vi và chân đế vô vi.
Chân đế hữu vi có ba: sắc (vật chất), tâm và tâm sở.
Chân đế hữu vi luôn luôn bị chi phối bởi ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
Nếu khổ ở đây là đau khổ thì cục đá, khúc gỗ vật chất cũng đau khổ hay sao? Có người lập luận,"khổ" ở đây là chúng ta bị "đau khổ" bởi chúng!!! Nhưng, thật sự, chúng ta có bị "đau khổ hay không đau khổ" vì chúng hay không thì tự thân chúng vẫn đang "khổ"
Chúng ta xem lại câu kinh Pháp cú 278
Pāli,
"Sabbe saṅkhārā dukkhā ' ti,
Yadā paññāya passati,
Attha nibbindati dukkhe,
Esa maggo visuddhiyā.
English,
All conditioned things are UNSATISFACTORY.
When one sees this with wisdom,
One turns away from SUFFERING,
This is the path to purification".
Bài kệ này, có nhiều bản dịch Việt, có ý nghĩa chung chung như sau:
Các pháp hữu vi là KHỔ (không đồng nhất, mâu thuẫn, nghịch nhau)
Khi thấy điều này bằng trí tuệ
Thì không còn ĐAU KHỔ
Đây là con đường thanh tịnh.
Chúng ta xem kệ 278 trên trong bản dịch Anh ngữ, cùng chữ dukkhā nhưng cuối câu 1 dùng chữ unsatisfactory nhưng cuối câu 3 dùng chữ suffering.
Điểm này rất quan trọng với việc thực hành Tứ Niệm Xứ để có chánh niệm, nhận ra năm uẩn, nhận ra vô thường, khổ, vô ngã. Nếu hiểu khổ là đau khổ thì bị rơi vào quán cảm giác khổ thuộc khổ thọ trong quán thọ trên thọ, hay bị rơi vào quán khổ khổ, hoại khổ, hành khổ thuộc về khổ đế của Tứ Thánh Đế trong phần quán pháp trong pháp.
Khổ trong vô thường, khổ, vô ngã không phải là sắc, không phải là cảm thọ, không phải là tâm mà là "trạng thái" vận hành của các pháp chân đế hữu vi.
Trên đây, chỉ là lộ trình của bậc Dự lưu theo kiến thức Phật học, giống như tấm bản đồ bằng giấy với những ký hiệu và màu sắc. Chúng ta không thể đi hay chạy xe trên tấm bản đồ bằng giấy mà phải TỰ MÌNH đi hay lái xe chạy trên con đường thật. Nhưng, chúng ta PHẢI luôn tỉnh táo rằng, những gì xảy ra trên con đường thật SẼ KHÔNG GIỐNG như những ký hiệu trên tấm bản đồ.
Breathe easy !
Don't worry be happy.
Khi có tấm bản đồ đúng, nếu lạc đường sẽ biết lối ra và nhớ đường. Trên con đường thật, có biết bao điều kỳ diệu sinh động sẽ xuất hiện với chúng ta và tất nhiên không giống như tấm bản đồ chỉ có những ký hiệu chết.
Sau khi đọc bài này, có bạn cho ý kiến, bài Ba cửa giải thoát như văn bản, khó thực hành được.
Anh ấy nói đúng vì ngay từ trên, tôi ghi rõ copy và diễn giải từ các tài liệu ở Abhidhamma nhưng nếu CHỊU KHÓ đọc kỹ 6 bài viết, và thực hành theo trình tự từ 1 đến 5 thì Bài 6: Ba cửa giải thoát KHÔNG PHẢI LÀ BÀI THỰC HÀNH mà là KẾT QUẢ từ thực hành 5 bài trước.
Tôi không nghĩ là với 5 bài thực hành trước KHÔNG AI KHÔNG THỂ HIỂU, THỰC HÀNH ĐƯỢC, ngoại trừ họ KHÔNG CÓ NHU CẦU.
Bài Kết: Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ.
Câu hỏi: Thưa thầy, qua các bài thầy gửi trên, con vẫn chưa hiểu rõ thế nào là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Xin thầy giải thích lại."
Trả lời:
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin trích phần giải thích về ba kiết sử này trong sách The Noble Eightfold Path _ Way to the End of Suffering của Ngài Bhikkhu Bodhi. Page 116:
"Personality view" (sakkaya-ditthi), the view of a truly existent self in the five aggregates, is cut off since one sees the selfless nature of all phenomena. Doubt is eliminated because one has grasped the truth proclaimed by the Buddha, seen it for oneself, and so can never again hang back due to uncertainty. And clinging to rules and rites is removed since one knows that deliverance can be won only through the practice of the Eightfold Path, not through rigid moralism or ceremonial observances."
Bản dịch Việt ngữ của chúng tôi :
Bát Chánh Đạo "Con đường đưa đến chấm dứt đau khổ"
Trang 231:
1/ Thân kiến (sakkàyaditthi), quan điểm về một bản ngã thật sự tồn tại trong năm uẩn bị cắt bỏ vì vị ấy thấy rõ thực thể vô ngã của các pháp.
2/ Hoài nghi bị hủy diệt vì vị ấy đã hiểu chính xác (bốn) chân lý do Đức Phật công bố, tự mình thấy rõ nên không thể nào do dự lùi bước.
3/ Giới cấm thủ bị loại bỏ vì vị ấy biết rõ đạt đến sự giải thoát chỉ bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo, không thể bằng sự tuân thủ khắc khe theo những quy định của tôn giáo hay nghi lễ.
Xem thêm: