Search

Hiển thị các bài đăng có nhãn tử vi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tử vi. Hiển thị tất cả bài đăng

21.1.11

Đặt tên cho con sinh năm Tân mão 2011

Phanblogs
ĐẶT   TÊN  CON NĂM  TÂN   MÃO  (2011)

***

Sinh năm Tân Mão , tên  cần có :-

*Bộ  Mộc   木(cây) :- chủ về nghề nghiệp, chức vụ ổn định.

*Bộ  Mễ    米 ( gạo)   :- chủ về  vật chất, tiền bạc sung túc.

*Bộ  Đậu    豆(hạt đậu) :-  chủ về  vật chất, tiền bạc sung túc.


Muốn đặt tên, chọn một chữ có bộ Mộc rồi ghép với chữ có bộ Mễ hay bộ Đậu  là tốt được cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần.

*Tên  kỵ  có  bộ  Tâm  心và  những chữ có liên quan  đến Long 龍, Thìn 辰(rồng)
Để chọn được một tên gọi hay và có tác động tốt cho thời vận của người tuổi Mão, bạn nên chú ý những điều sau:
Vì Hợi, Mão, Mùi là tam hợp nên bạn có thể dùng những chữ đó khi đặt tên cho người tuổi Mão. Những tên có các chữ đó gồm: Hào, Gia, Nghị, Chu, Dự, Thiện, Nghĩa, Tường, Nghi…
Do Mão thuộc hành Mộc nên tên của người tuổi Mão có chứa bộ Mộc sẽ rất tốt cho tài vận của họ. Bạn có thể chọn những tên như: Mộc, Sâm, Tài, Đồng, Mai, Tùng, Thực, Diệp, Hóa, Thụ…
Vẻ ngoài của mèo là yếu tố được chú ý đầu tiên, nó luôn tìm cách làm sạch bộ lông của mình. Vì vậy, những tên giúp thể hiện vẻ đẹp đó như: Nhan, Chương, Tố, Duy, Tú, Tráng, Phúc, Lễ… cũng rất phù hợp với người tuổi Mão.
Trong văn hóa Trung Quốc, năm con mèo được thể hiện bằng hình ảnh biểu trưng là con thỏ. Thỏ là loài động vật thích ăn cỏ, vì vậy những tên gọi có chứa bộ Thảo như: Phương, Đài, Danh, Như, Bình, Thanh, Cúc, Dung, Diệp… rất phù hợp với người cầm tinh con giáp này.
Ngoài ra, thỏ còn rất thích ăn những loại ngũ cốc. Do đó, những chữ có chứa các bộ là tên gọi của ngũ cốc (Hòa, Đậu, Mễ, Kiều, Tắc, Đạo, Thục) như: Hòa, Khoa, Trình, Đạo, Hoạch, Kiều, Phong, Kiên, Phấn, Lương… cũng thường được sử dụng.

Tuổi Mão

Để đặt tên cho con tuổi Mão, bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, Tử Vi (nếu bé đã ra đời mới đặt tên). Có nhiều thông tin hữu ích có thể giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé.

Tam Hợp

Tam Hợp được tính theo tuổi, do tuổi Mão nằm trong Tam hợp Hợi – Mão – Mùi nên những cái tên nằm trong bộ này đều phù hợp và có thể coi là tốt đẹp.

Bản Mệnh

Bản Mệnh thể hiện tuổi của con thuộc Mệnh nào và dựa vào Ngũ Hành tương sinh tương khắc để đặt tên phù hợp. Thông thường trên lá số tử vi thì Mão thuộc Mộc, vì vậy các cái tên phù hợp với Thủy, Mộc, Hỏa đều tốt.
Đặt tên cho con tuổi Mão
Tuy nhiên nếu muốn xem kỹ hơn đối với từng tuổi Mão thì có thể lưu ý bản mệnh theo năm. Cụ thể:
  • Tân Mão: Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá)
  • Quý Mão: Kim Bạch Kim (vàng trắng)
  • Ất Mão: Đại Khê Thủy (nước khe lớn)
  • Đinh Mão: Lư Trung Hỏa (lửa trong lu)
  • Kỷ Mão: Thành Đầu Thổ (đất trên thành)
Như vậy, với Tân Mão thì mệnh Mộc, Mão cũng thuộc Mộc do vậy có thể chọn tên theo nghĩa Thủy (nước) là tốt đẹp. Nếu bạn cho rằng mèo sợ nước thì có thể chọn bộ Mộc để đặt tên cho con, cũng rất nhiều tốt đẹp.

Tứ Trụ

Dựa vào ngày, giờ, tháng, năm sinh của bé để quy thành Ngũ Hành, nếu bé thiếu hành gì có thể chọn tên hành đó. Năm Mão chắc chắn chứa ít nhất 1 hành Mộc, cộng với bản mệnh của bé, của bố mẹ sẽ có 11 yếu tố được xem xét.

Tử Vi

Tử Vi thiên về xem vận hạn và chiêm nghiệm cho cuộc đời con người, tuy nhiên cũng có thể dựa vào hướng phát triển phù hợp của bé để chọn cái tên phù hợp. Chẳng hạn nếu cung Tài tốt đẹp thì những cái tên tài lộc sẽ mang ý nghĩa hỗ trợ rất tốt, ví dụ: Phú, Lộc, Tài, Ngân, Kim, Bảo v.v…

XU HƯỚNG ĐẶT TÊN

CHO CON

- Thiên Việt
Như đã nói, nhiều người muốn đặt cho con những cái tên mang lại nhiều điều may mắn, nên có những cách để lựa chọn như :
- Mong thành đạt : có những tên Vượng, Ích, Thành, Đạt, Tiến, Thịnh, Tài, Kiệt, Hiển, Vinh, Phát…
- Muốn giàu sang phú quý : có Phúc, Lộc, Vượng, Phát, Tài, Kim, Ngân, Châu, Báu, Ngọc, Ngà, Đại v.v… tránh tên Bần, Tiện, Khó, Khăn, Bé, Ít, Thiểu…
- Mang tính gia phong đạo đức : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Liêm, Chính, Hiếu, Trọng, Đạo, Đức…
- Mang tính sức khoẻ : Cường, Cương, Lực, Kiện, Cao, Tráng, An, Khang… nhưng tránh Nhu, Yếu, Bại, Liệt, Kiết, Thấp, Khớp…
- Mang tính phong cách : Hùng, Dũng, Mạnh, Mãnh, Can, Trường, Quang, Minh, Sáng, Khai…
Trước những năm 1945 khi nền Nho học còn thông dụng, các bậc cha mẹ đặt tên con theo lối chiết tự, nghĩa rất hay và thâm thúy nhưng cái tên nghe lại thô kệch, với cách ghép 2 chữ, 3 chữ đến 10 chữ thành một nghĩa.
Bản chất mỗi chữ đã mang ý nghĩa của thuyết Bát Quái lấy trong Hà Đồ Lạc Thư như :
- Dùng 1 nét hay một chữ gọi là Thái Cực (như chữ Nhất chỉ một nét), có nghĩa ngôi cao nhất trong trời đất, gần như đấng tạo hóa đã tạo ra vạn vật muôn loài.
- Dùng 2 nét hay hai chữ ghép gọi là Lưỡng Nghi (như chữ Nhị có hai nét từ chữ Nhất ghép lại), có nghĩa Âm Dương giao phối, nơi sinh ra và thu về.
- Dùng 3 nét hay 3 chữ ghép gọi là Tam Tài (như chữ Tam có ba nét của chữ Nhất ghép lại), để chỉ ngoài Trời và Đất còn có con người.
- Dùng 4 chữ ghép là Tứ Tượng, 5 chữ là Ngũ Hành, 6 chữ là Lục Hào, 7 chữ là Thất Chính, 8 chữ là Bát Quái, 9 chữ là Cửu Trù, 10 chữ là Thành Quái v.v…
Đồng thời dùng tên 64 quẻ trong Chu Dịch để đặt tên, như muốn thành đạt đặt tên Tế (quẻ Thủy Hỏa Ký Tế) ghép với họ thành tên Trần Ký Tế hay Phạm Ký Tế… Tuy nhiên với người không thông hiểu nghĩa Hán Nôm hay Chu Dịch, cho chữ Tế là tế lễ, tế thần đồng nghĩa với việc quỳ lạy, van xin, chủ về quy thuận, quy hàng.
Đến nay tiếng Hán, tiếng Nôm đã mai một, nên không ai còn dùng cách chiết tự để đặt tên cho con cháu nữa, cũng như giữa chữ viết Hán Nôm và chữ Việt đã khác, có tên tuy đồng nghĩa nhưng không đúng nét, có tên lại mang hai ba nghĩa khác nhau (như chữ Tế nói trong thí dụ trên).
Ngoài ra trong xu hướng đặt tên cho con hiện nay, nhiều người đặt tên với sở thích cá nhân của vợ hay chồng, nên ngoài tên họ (đôi khi họ của cả chồng lẫn vợ ghép lại), chữ lót Văn hay Thị, rồi đến tên sở thích, hay sự ngưỡng mộ như Lê Nguyễn Thị Du Lịch (thích ngao du ngoạn cảnh), Nguyễn Trần Hoa Trinh Nữ (tên bài hát, cũng như muốn nói con gái có đạo dức gia phong), Phạm Đỗ Văn Mỹ Tâm (có lẽ thích ca sĩ Mỹ Tâm) v.v…
Cái tên đôi khi nói lên ước muốn tương lai cho con cái, đọc nghe kêu có ý nghĩa, nhưng chưa thật phù hợp với xã hội nhân văn. Bởi nếu tên con là Nguyễn Trần Hoa Trinh Nữ (5 chữ) chỉ là thiểu số cá biệt trong rừng tên 3 chữ từ bao đời nay, sẽ gây chú ý đến mọi người, khi lớn chúng gặp bạn trêu ghẹo “có còn trinh nữ không ?”, thật mắc cỡ vô cùng.

TÍNH CHẤT QUA 22 CHỮ CÁI

Ngoài những cách đặt tên cho con như đã dẫn, trong tâm linh đa số người Việt còn đặt tên con theo 22 chữ cái, với các ý nghĩa mang tính thần bí của mỗi chữ, sau khi đi theo nguyên tắc hộ tịch :
1- Họ : nguyên tắc về hộ tịch lấy họ cha, nếu cha vô danh mới lấy họ mẹ. Hiện nay nhiều cha mẹ lấy cả hai họ.
2- Chữ lót tên : ngày xưa chữ Văn dùng để chỉ con trai, chữ Thị để chỉ con gái. Nhiều địa phương miền Trung không dùng chữ lót mà chỉ có họ và tên. Ngày nay nhiều người không sử dụng Văn hay Thị mà thay bằng chữ ghép với tên như Trần Huệ Phương, Nguyễn Tâm Dung. Vì thế đôi khi mới đọc tên có thể lầm lẫn về giới tính.
3- Tên : là tên đi vào lý lịch. Như Trần Huệ Phương, ở các nước Âu Mỹ sẽ được ghi thành : Phương – Trần Huệ (tên đi trước họ). Nên dù tên đơn, tên ghép, cũng chỉ lấy một tên ở cuối là chính.
Nói về tính chất thần bí qua 22 chữ cái dùng đặt tên cho con (thực tế có đến 26 chữ cái, nhưng những chữ không phù hợp để đặt tên theo tiếng Việt như J, F, W, Z nên chúng tôi loại bỏ). Như muốn đặt tên như Phương xem vần P, tên Nhung xem vần N…
- Các vần A, S : tính cương quyết, thành thật nên hay cứng rắn trong quyết định, can đảm dấn thân và ghét kẻ xu nịnh. Những ai mang vần chữ cái A và S có tính tự tôn, tự đại, vì thế thích làm người chỉ huy, lãnh đạo hơn làm cấp dưới quyền. Cuộc sống tình cảm thường độc đoán, khắc khe nên gia đạo không trọn vẹn hạnh phúc. Công danh sự nghiệp dễ đạt đến thành công, tiền của đi song hành theo đường quan lộc.
- Các vần B, K và T : người có duyên ngầm, có số đào hoa và giỏi về giao tế ứng xử. Tính tình phúc hậu, thương người, đồng thời được mọi người giúp đỡ. Càng lớn tuổi danh vọng, địa vị càng cao, tiền tài không thiếu.
- Các vần C, L và U : có tính khiêm tốn, biết phục thiện, ham tìm tòi học hỏi. Người thông minh, sáng suốt khi giải quyết và có khả năng vượt mọi trở ngại để đạt mục đích. Trong tình cảm thường gặp đỗ vỡ, tuy nhiên đến hậu vận có một mái ấm hạnh phúc tuyệt vời. Công danh sự nghiệp thường không bằng phẳng phải có người giúp đỡ, tài lộc vì thế không có của để dành.
- Các vần D, M và V : thành công về sự nghiệp, danh vọng cũng như vật chất nhưng không to tát lắm. Về tình cảm có cuộc sống bình dị, chừng mực không ồn ào, thích nơi yên tĩnh. Tính tình ghét việc gian xảo thích có sự bình đẳng giữa mọi người, không lo xa, sống hết mình với vợ con và thân hữu nhưng do không phô trương thường dễ bị hiểu lầm. Những người mang vần D, M và V có số đào hoa, con cái có đứa thành đạt có đứa hư hỏng do “con gái đức cha, con trai đức mẹ”, hậu vận gặp nhiều biến đổi.
- Các vần E, N : thuộc chu kỳ nhập cung trung, là nơi xuất phát cũng như thu về, nên cuộc đời sướng khổ triền miên như câu “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”, nhưng vẫn vượt qua được phong ba bão táp. Do mang tính chất thay đổi nên tích lũy được nhiều kinh nghiệm để phát huy những sáng kiến về sau. Thích di du lịch, giỏi ngoại ngữ, tình cảm cũng nhiều sôi nổi lẫn bi đát. Công danh sự nghiệp thường trung bình, nếu vượt quá giới hạn sẽ gặp hung sát. Tài lộc không có gì nổi bậc.
- Các vần G, P và Y : có tính trầm lặng, thích yên tĩnh và trung thực với bản thân, không khoa trương, rất tự giác cầu tiến để tự điều chỉnh lấy mình. Do có đời sống nội tâm cao dễ bị hiểu lầm là người ích kỷ. Về tình cảm thường cao số, nên những mối tình đầu hay tan vỡ cuối cùng chỉ lấy người tưởng không duyên số mà thành đôi. Công danh sự nghiệp không mấy thành đạt, số chỉ buôn bán nhỏ (tiểu thương), nhà đất tiền của không nhiều.
- Các vần H, Q : giàu sự tự tin thích tự lập, ưa nghe lời tâng bốc nên nhiều khi bị tiểu nhân lợi dụng. Tính hay can thiệp vào chuyện bất bình, có những can thiệp theo kiểu “ăn cơm nhà vác tù và hàng Tổng” nhưng vẫn thấy hứng thú lao vào, do tính hiếu thắng và tự đại. Có duyên ngầm nhưng nhút nhát trong tình cảm, cho nên đời sống tình cảm thường bình lặng, chấp nhận hạnh phúc sẵn có. Công danh sự nghiệp vững chắc từ tuổi 37 trở lên, nên bảo đảm cuộc sống từ hậu vận.
- Các vần I, R : biết hòa mình cùng tập thể nhờ tính thích hòa nhập, nhưng hay cố chấp bảo thủ, lại không thích đua chen, không biết lo xa nên coi thường đường công danh sự nghiệp. Trong tình cảm lại buông thả đam mê khi đã yêu ai, sẵn sàng chết vì yêu, nên khi có gia đình rất chung thủy với vợ biết lo cho con cái. Số thọ và đông con. Vần I và R mang con số 8 thuộc quẻ Cấn, có nghĩa là núi (Sơn) nên dù coi thường đường công danh sự nghiệp nhưng vẫn vững vàng, nhưng trì trệ phát triển. Tài lộc hơn trung bình, nếu bộc phát nhanh sẽ sớm tàn lụi.
- Các vần O, X : mang tính bặt thiệp, giao tế ứng xử tốt, duyên dáng trước mọi người, được giao nhiêu công viêc tưởng vượt quá khả năng nhưng vẫn hoàn thành xuất sắc. Khéo tay nên có khiếu về mỹ thuật điêu khắc, hội họa và âm nhạc (nhạc sĩ). Tình cảm vì thế rất ủy mị, thích được chiều chuộng và yêu thương.
Công danh sự nghiệp tuy không thành đạt vẻ vang, nhưng hậu vận cũng không khốn khó, có của cho con cháu. Nữ nếu hồng nhan sẽ bạc phận, không bạc phận cũng truân chuyên, nam bạo phát cũng bạo tàn.
Khi tìm vần đặt tên theo các tính chất trên, cần biểu thị tên lót và tên chính đúng với giới tính, để tránh gây lầm lẫn trong các loại giấy tờ không có nhân dạng, cũng là cách biểu thị tính Âm Dương được rõ ràng.
Như tên Lan, Cúc thường đặt tên cho nữ, còn Hùng, Mạnh thường đặt cho nam, trở thành tập quán và thói quen nhận định của mọi người.
Ngày xưa các bậc ông cha không đặt tên con cháu theo kiểu “ái nam ái nữ”, vì cho rằng sẽ có huông theo tên, thí dụ nam giới mà đặt tên Nguyễn Văn Liễu sau này sẽ có tính ẻo lã như con gái, ốm như thân liễu, cành liễu v.v…


 1001 tên bé trai : https://docs.google.com/Doc?id=dgx6bq5c_11f5cnhcct&pli=1
1001 tên bé gái : https://docs.google.com/Doc?id=dgx6bq5c_12c6w5thgj





9.5.10

NHỮNG NGƯỜI SINH CÙNG NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ, PHÚT, GIÂY MỆNH VẬN CÓ GIỐNG NHAU KHÔNG ?

Có người bạn nói chuyện với tôi về mệnh vận. Anh ta nói: tôi cực lực phản đối thuyết con người có mệnh vận và nêu ra một số lý do để chứng minh quan điểm của mình là đúng. Ví dụ, nếu có người nói con người có mệnh vận, thế thì những người sinh cùng năm, tháng, ngày, giờ, phút, giây vì sao chỉ có một người làm vua. Nước ta có rất nhiều người giờ sinh như nhau, mệnh vận của họ nên giống nhau mới đúng, tại sao lại không giống? Luận điểm của anh ta rất rõ ràng, chỉ cần cùng thời gian sinh thì mệnh vận sẽ như nhau, không thể khác nhau tí nào hoặc phân thành suy vượng được.
mệnh vận, sinh cùng tháng cùng năm, số mệnh, tử vi


Tôi hỏi anh ta: ngày cùng là ngày cả thế tại sao còn có xuân hạ thu đông, có nóng lạnh khác nhau ? Ðất cũng là cùng một quả đất, vì sao có chỗ nước, chỗ không, chỗ cao, chỗ thấp? Cùng một mảnh đất, cùng một hạt lúa, cùng trồng sáu tháng vì sao có cây cao, cây thấp? Cũng một cành cây, tại sao có quả to, quả nhỏ. Nhân thể là một khối thống nhất, tại sao công năng của lục phủ, ngũ tạng lại có cái mạnh, cái yếu, có cái tốt, cái xấu? Vì sao có người chỉ có gan mộc khối u, còn các phủ tạng khác thì lại tốt? Tôi lại nói cơ thể con người là thống nhất, lục phủ ngũ tạng ở trong mình là tự người mẹ sinh ra, tất cả cùng giờ sinh thế mà chỉ có gan mọc khối u còn những tạng phủ khác thì không bị. Vậy giữa chúng quả thực có sự khác nhau rất lớn.
Ông bạn ấy nghe tôi nói đã hiểu được vấn đề và nói lại là: "Ừ, đúng nhỉ! Lục phủ ngũ tạng đều cùng một giờ sinh, thế mà lại khác nhau rất lớn, thật đáng nghiên cứu.". Tôi nói với anh ta: "Tổ tiên chúng ta từ lâu đã nghiên cứu ra rồi, đó là lục phủ ngũ tạng đều có âm dương, có ngũ hành tương sinh tương khắc, mỗi cái chủ suy vượng của 4 mùa, cho nên cùng một giờ sinh, nhưng khác nhau rất lớn".
Những người cùng giờ sinh, vì sao mệnh lại không giống nhau? Nguyên nhân rất nhiều, không có cách nào để giải thích cho rõ ràng, tỉ mỉ được. Tôi chỉ nói vắn tắt như sau:
1) Phương vị khác nhau, như phương nam là hỏa, phương đông là mộc, phương bắc là thủy, phương tây là kim. Người mệnh hỏa nhưng sinh ở phương nam hay phương bắc sẽ khác nhau. Phương nam là đất hỏa vượng, phương bắc bị thủy khắc cho nên không như người sinh ở phương nam.
2) Năm mệnh của phụ mẫu khác nhau.
3) Năm mệnh của anh chị em khác nhau.
4) Năm mệnh hôn nhân khác nhau.
5) Năm mệnh của con cái và số con đều khác nhau.
Vì năm mệnh của những người trong gia đình khác nhau, mức độ ngũ hành sinh khắc sẽ khác nhau, do đó ảnh hưởng đối với con người cũng sẽ khác nhau. Ví dụ có một người mệnh Mộc, cha mẹ đều là mệnh Kim, đều khắc anh ta. Có người tuy cũng là mệnh Mộc, nhưng cha mẹ đều là mệnh Thủy, thủy sinh mộc. Người bị khắc cuộc sống sẽ không thuận, người được tương sinh cuộc sống sẽ thuận.
6) Nam nữ khác nhau, do đó mà có sự vận hành thuận, nghịch khác nhau.
7) Tướng mặt, vân tay không giống nhau cho nên việc nó làm chủ cũng khác nhau.
8) Cốt tướng của người khác nhau.
9) Mộ tổ, nhà ở khác nhau, phương vị khác nhau. Ngày xưa đã có câu "Nhất mộ, nhì phòng (nhà ở), tam bát tự", tức là nói mệnh vận tốt, xấu của một người, thứ nhất quyết định ở phong thủy phần mộ ông cha tốt hay xấu; thứ hai quyết định ở phong thủy của nhà ở; thứ ba quyết định ở sự sắp xếp tổ hợp của tứ trụ. Cho nên, cho dù ngày giờ sinh giống nhau, nhưng phần mộ tổ tiên và nhà ở không hoàn toàn giống nhau được.
10) Gen di truyền của mỗi người khác nhau.
11) Hoàn cảnh, điều kiện gia đình của mỗi người khác nhau.
12) Ðiểm sáng của sao chỉ có một. Tuy có hàng nghìn, hàng vạn người cùng giờ sinh, nhưng điểm sáng của sao trực ban quyết không phải người nào cũng nhận được. Nếu điểm sáng này chiếu đúng vào nhà một người nào đó, hoặc đúng lúc người mang thai đang sinh, người đó có thể sẽ là hoàng đế, còn những người khác thì không làm nổi hoàng đế. Nếu có một tạp chí nào đấy đã thông báo: bố mẹ Mao Trạch Ðông đều không đồng thời nhìn thấy vầng đỏ phía đông phòng họ rồi sau đó mang thai Mao Trạch Ðông, đương nhiên vầng đỏ này không phải là tất cả các bậc bố mẹ của những người cùng giờ sinh đều thấy được.
Có một câu chuyện như sau:
Chu Nguyên Chương đời Minh sau khi đã làm Hoàng đế nghĩ rằng, mình đã làm vua và những người cùng giờ sinh với mình cũng là "mệnh Hoàng đế" cả, nếu không giết hết họ sau này sẽ có người tranh ngôi. Do đó ông đã ra lệnh giết, giết loạn mà không thương tiếc. Khi giết đến nửa chừng, Chu Nguyên Chương lại nghĩ nên bắt mấy người cùng giờ sinh với ông đến để hỏi xem họ làm nghề gì, sau đó giết cũng chưa muộn. Chu Nguyên Chương hỏi một người trong số đó: "Ông làm gì?" - "Nuôi ong" - "Nuôi bao nhiêu ong?" "Nuôi 9 tổ", tất cả mấy vạn con".
Chu Nguyên Chương sau khi nghe, vừa sợ vừa mừng: mình làm Hoàng đế thống trị cả 9 châu, 9 chư hầu. Ông ấy nuôi 9 tổ ong, có 9 ong chúa. Số ong của ông ấy nuôi và số người của mình cai trị đại thể giống nhau. Xem ra mình và ông ta không đều là Hoàng đế của người cả, làm hoàng đế của người chỉ có một mình, còn người khác, có người làm vua của ong, có người làm vua của tằm, có ngừơi làm vua của cá... Do đó Chu Nguyên Chương cảm thấy yên tâm và ngừng lệnh giết những người cùng ngày sinh.
Về vấn đề vận mệnh của những người sinh đôi có giống nhau hay không ?, có thể nói không hoàn toàn khác nhau. Vì cho dù cùng sinh trong một giờ, nhưng có trước có sau. Nếu không cùng sinh trong một giờ thì khác biệt còn rõ hơn nữa. Tôi đã sơ bộ điều tra thấy rõ, những người sinh đôi sau khi kết hôn thì sai lệch rất rõ, nguyên nhân là vì những người bạn đời họ chưa ít khi đều cùng một năm mệnh, cũng không thể cùng giờ sinh. Như vậy các thành viên tổ thành gia đình này phát sinh ra biến hóa, ngũ hành sinh khắc cũng đồng thời phát sinh biến hóa, cho nên mệnh vận của hai người sẽ khác nhau.
Vạn vật trong tự nhiên, thậm chí là trong cùng một sự vật, sự phát triển biến hóa còn không đồng đều, huống hồ những người cùng một ngày sinh làm sao mệnh vận lại giống nhau được.
Do đó sự tổ hợp thiên can địa chi trong năm, tháng, ngày, giờ sinh của mỗi người là nhân tố nội tại của mệnh vận tốt hay xấu, là căn cứ của sự biến hóa, nhân tố bên ngoài chỉ là điều kiện để biến hóa. Sự sắp xếp của thiên can địa chi, khí âm dương ngũ hành có mối quan hệ rất mật thiết với con người, đương nhiên chúng ta không phủ định sự nỗ lực chủ quan. Ví dụ trong tứ trụ có tiêu chí thông tin học đến đại học, nhưng không đọc sách, không nỗ lực học tập, chắc chắn là không tốt nghiệp đại học. Do đó muốn đạt được mục đích dự tính, ngoài nhân tố tiên thiên còn phải cộng thêm sự nỗ lực của hậu thiên.
(Trích từ "Chu Dịch với Dự Đóan Học" của Thiệu Vĩ Hoa)


CHẾ TẠO SẴN LÁ SỐ TỬ VI RỒI LẤY THAI RA ĐÚNG GIỜ ĐỊNH TRƯỚC

NHƯNG SINH NON THÁNG THÌ SỐ CÓ ĐÚNG KHÔNG ? Trong họ tôi có lệ cấm không được mang bộ “Đông A Di Sự” cho người ngoài đọc và không được dạy Tử Vi cho những người thiếu tư cách đạo đức. Thành ra nhóm Đông A của chúng tôi, số người ngoại tộc chưa quá 60, trong khi nội tộc trên 100 người. Những người ngoại tộc hầu hết trên 30 tuổi, trong khi nội tộc có người mới…15 tuổi, những người nội tộc hay làm xấu hơn ngoại tộc.


CHẾ TẠO SẴN LÁ SỐ TỬ VI RỒI LẤY THAI RA ĐÚNG GIỜ ĐỊNH TRƯỚC

Trong năm Giáp Dần, người làm xấu nhất lại là đứa cháu gái của tôi. Nó tên là Thi Thi (tên gọi ở nhà). Ông anh họ tôi, cha của Thi Thi xuất thân là thẩm phán, nên có mặc cảm mình ác. Ông muốn Thi Thi làm luật sư để chuộc tội cho cha. Năm 1973, Thi thi đậu cử nhân luật, tôi gửi vào văn phòng một luật sư già cho nó tập sự. Ông luật sư già thương nó lắm, coi nó như con vậy. Nên thay vì gọi ông bằng thầy, nó gọi ông bằng bố. Tất cả những vụ nhỏ, ông giao cho nó hết.


Thi Thi tuổi Tân Mão, tháng 1, ngày 9 giờ Hợi, mệnh Cự Cơ tại Mão được Lộc, Khoa, Khúc, Tuế phò trợ.

Cự thì nói giỏi, Cơ thì tinh khôn mưu trí, Cự có Lộc thì tham ăn, hay khóc, hay được ăn, gặp hạn sát tinh thì hay thâm tài, tức…tham nhũng. Nhưng có Khoa, Khúc thì nó đẹp, dù có tham nhũng đến mấy cũng không bị tù. Vì trong khoa Tử Vi, Văn Khúc, Hóa Khoa là hai Đại Giải Thần (cách đây 6 năm khi làm Thẩm phán quân sự, tôi đã cố buộc tội nhiều can phạm tham nhũng, mệnh có Khoa, mà không được). Hội đủ các sao nói giỏi như vậy, nên Thi Thi lợi dụng triệt để cái sở trường của nó, cái gì nó cũng dùng lời nói để vượt qua lọt. Nịnh bố, nịnh mẹ, nịnh chú, nịnh thầy, nịnh cả quan tòa để xin tha cho tội nhân.
Thi Thi học Tử Vi từ năm 18 tuổi, do cha dạy, song chỉ học giải đoán tâm tính, hình dạng và trợ cách, phá cách thôi. Sau khi tập sự luật sư, nó xin tôi cho dự các buổi họp của nhóm Đông A. Tôi đồng ý, đây là đầu mối của việc phiền phức.

Trong một buổi họp, Thi Thi bàn tử vi một bác sĩ sản khoa trong nhóm. Nhân nghe vị bác sĩ này nói có thể cho sản phụ sinh sớm hay trễ hơn một số ngày. Trong ngày có thể dùng máy hút, hút hài nhi ra đúng giờ ấn định nào đó. Sau buổi họp về, Thi Thi nói cho bạn nó, bà M, vợ một tỷ phú nghe. Bà M rất tin Tử Vi, bà cho biết bà sinh vào tháng 5 song không biết ngày nào. Vậy Thi Thi tìm cho ngày, giờ tốt nhất, để bà nhờ Bác sĩ hút đứa trẻ ra.
Thi Thi “chế tạo” ra một lá số làm sao đủ bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc. Đã vậy nó còn tham lam thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, Thái Tuế để được cách “Lộc Mã giao trì”. Nó đưa ra tuổi Giáp Dần, tháng 5 chỉ có giờ Thìn ngày 2, 16, 25 thì:

- Mệnh lập tại Dần, Vũ, Tướng, Khoa, Mã, Tuế, Lộc Tồn.
- Quan tại Ngọ, Tử, Hữu, Long Xương, Tướng Quân.
- Di tại Thân, Phá, Quyền, Tả, Khúc, Phượng.
- Tài tại Tuất, Liêm, Phủ, Lộc.


Nghĩa là lá số “siêu đẳng nhân”. Bà M đến một bảo sanh viện tư danh tiếng, xin với bà giám đốc làm cách nào cho đứa trẻ ra đời từ 8g30 – 9g30 ngày 16 tháng 5 âm lịch (Giáp Dần). Bà được toại ý. Đứa trẻ ra đời với lá số đã định sẵn, Thiên Mệnh không ở trong tay Thượng Đế, mà ở trong tay cô gái 23 tuổi. Vấn đề thật phiền phức.

Việc xảy ra làm chấn động nhóm Đông A. trong nhóm có tới trên 10 vị là Bác sĩ, Dược sĩ. Kể cả thân hữu thì có tới mấy chục, các vị kéo lên trụ sở của nhóm tại Thủ Đức để bàn về vấn đề đó. Nếu sự thực đứa trẻ cưỡng sinh ra mà được hưởng số đã định theo người thì năm Ất Mão sẽ là năm Việt Nam sinh ra toàn trẻ có văn cách, giàu sang (vì tuổi Ất thì Hóa Lộc phò Thiên Cơ, Hóa Quyền phò Thiên Lương. Muốn có số tốt ngoài Lộc Tồn, Tả, Hữu, Xương, Khúc ra phải có Quyền Lộc… nên phải được bộ văn đoàn Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ). Tương lai sẽ có cửa hàng bán lá số chế tạo, giải đoán sẵn. Sẽ có cuốn sách in hàng trăm lá số của đủ loại người, với lời giải đoán, bán cho các sản phụ, các bảo sanh viện tha hồ ra giá…

Chúng tôi họp nhau bàn cãi cả ngày không đem lại kết quả nào. Tôi tìm được 2 đoạn sách nói về việc cưỡng sinh.

Đoạn thứ nhất chép trong sách “Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh”, phần biên tiểu sử Hi Di tiên sinh. Khi Thái Tổ hỏi số của tiên sinh, ông cho biết vì thân mẫu ông sinh ông non 1 tháng, nên số đó không do trời, không đúng với sự vận hành tinh tú.

Đoạn thứ hai chép về số Nguyễn Linh Nhan trong sách Đông A Di Sự. Mẹ Nhan có mang 8 tháng rưỡi, bị đá đè dập đầu gần chết. Cha Nhan phải nhắm mắt chém chết vợ cho khỏi đau đớn, rồi mổ bụng mang hài nhi ra. Đúng số thì Nhan đẹp trai, phúc thọ song toàn (Tử, Hữu, Vũ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc). Nhưng sự thật Nhan chết thảm về tay Trần Bắc Đại tướng quân, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Vì vậy đứa trẻ bị tai nạn đẻ non đều không xác định được số.

Mấy vị bác sĩ trong nhóm Đông A, trở về bảo sanh viện lục số tìm những tuổi trẻ đẻ non tháng, rồi truy tìm địa chỉ đến thăm. Sau 2 tháng, chúng tôi tìm được số đến gần 40 đứa trẻ sinh thiếu tháng từ 1959 đến 1962, đem lá số đối chiếu với sự thực: Hình dạng tính tình, vận hạn đều khác nhau xa vời.

Cuối cùng chúng tôi ghi vào phần phụ lục của tài liệu nghiên cứu: ”Nhân sinh hữu mạng, con người sinh ra đều có ngày giờ, tháng năm ứng vào sự vận hành của Thiên Hà. Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số sinh non phải dè dặt. Trong 38 lá số sinh non từ 1959 đến 1962 đã khảo nghiệm, có 32 lá số sai 80%...3 lá số sai 50%... 2 lá số sai 30% và 1 lá số đúng 80%.

Sau vụ này Thi Thi bớt tự đắc, ông anh tôi la rầy thì nó lại nịnh: “Đến cả họ mình và bao nhiêu người trong nhóm Đông A còn không biết cưỡng sinh là được hưởng số hay không, huống hồ là nó. Nhờ nó, vấn đề được đặt ra và nghiên cứu tinh tường”.
Tuviglobal lược trích từ "Tử Vi Vựng Tập Bình Chú" của Đông Y Sĩ Bùi Quang Nhuận.
Mọi sao chép từ trang Tuviglobal xin ghi rõ nguồn trích dẫn.