Search

25.9.22

MÓN NỢ ĐỜI

Một ngày, có đám khách xa lỡ tàu ngẫu nhiên lạc bước đến thảo am lão thiền sư, một người đã lâu quên mất chuyện thù tạc với đời. 

MÓN NỢ ĐỜI

Thấy ông có vẻ kiệm lời nhưng không đến nỗi người trệ khẩu, đám khách giết thời gian bằng mấy câu vấn đạo.

Khi được hỏi vì sao hiền thánh xưa giờ có vẻ không tha thiết chuyện sử dụng thần thông phép mầu như nương mây cưỡi gió về hưởng nhàn ở những chốn bồng lai tiên cảnh trên núi tuyết hay biển xa, mà cứ một đời ẩn cư những thâm xứ quạnh hiu xa vắng, lão thiền sư nheo mắt nhìn người hỏi:
-Chính thiên nhãn và huệ nhãn đã khiến thánh nhân như vậy đấy. Ngồi yên mà thấy hết mọi sự, và biết có đến tận nơi thì cũng không thấy thêm được cái gì ngoài những bóng nắng ảo hóa, thế bao nhiêu phép màu gì đó có còn là chuyện hứng thú nữa không?
Một cư sĩ tóc trắng vẻ người tân học nói mấy câu tỏ ý nghi ngờ chuyện thánh nhân không thích gì. Ông nói sống ở đời không thích ghét gì hết thì như cây không có nhựa sống. Lão thiền sư cứ có dịp thì lại cười hề hề:
-Ngay đến kẻ phàm phu chỉ cần biết vài chuyện ruồi bu cũng đủ khiến người ta hết thích này nọ, cần gì phải thánh mà ông tin với không tin.
Chẳng hạn biết chắc lúc nào mình sẽ chết, những chuyện buồn vui gì sẽ xảy đến ngày sau, hay thiên hạ đang nghĩ gì về mình…Người biết được chừng đó thôi thì có cho làm ngọc hoàng cũng không vui nổi, nói gì là thích. Ông nói rất đúng, thánh nhân giống hệt cội cây không còn nhựa sống, phải vậy các ngài mới có thể viên tịch Niết bàn. Nhưng nói vậy không có nghĩa là thánh nhân sống hắt hiu cằn cỗi như một kẻ muốn tự tử. Không còn ham thích gì nhưng các ngài cũng chẳng bất mãn thứ chi. Mọi sự tùy duyên, không hy cầu cũng không trốn chạy, thánh nhân sống bằng niềm thanh thản của một người làm xong việc nằm chờ giấc ngủ đến. Đơn giản vậy thôi.
Một người khách nãy giờ ngồi im lặng một góc bỗng hắng giọng hỏi một câu thiệt khó nghe:
-Tui bây giờ vẫn còn tin Phật, nhưng chỉ muốn quy y Nhị Bảo, không kể Tăng Bảo được không? Tăng ni thời nầy bó tay luôn!
Lão thiền sư cười to như không thể dằn lại:
-Có cưới đâu mà đòi ly dị. Tăng bảo trong Tam bảo chính là Pháp bảo được thể hiện qua con người. Người không có Pháp bảo thì sao gọi là Tăng Bảo. Đối tượng mà ông bất mãn vốn không có trong Tam Bảo.
Một người khách ngồi cạnh nghe vậy hỏi thêm:
-Xin hỏi nếu không nhìn mặt những tăng ni đó thì ai sẽ dạy đạo cho chúng con?
Lão thiền sư khoát tay:
-Nếu họ bê bối mà có cái để dạy ông thì chỉ nên nghe họ mà đừng nhìn họ. Nếu họ trong sạch mà dốt nát thì ta nên nhìn họ mà không cần nghe. Nếu tăng ni không có gì để ta nghe hay nhìn thì ông mất thời gian làm gì với thứ lỡ thầy lỡ thợ đó. Vã chăng, Phật Pháp là di sản của Phật để lại cho người cầu đạo, không dành riêng cho tăng ni nào hết. Mình bại liệt hay sao mà đến gia tài của bố để lại cũng phải nhờ người khác làm trung gian ban bố.
Cái mà tăng ni thời này có hơn cư sĩ chỉ là thời gian rỗi rảnh, họ có điều kiện tham cứu hơn. Nếu cư sĩ biết dành thời gian tự học nhiều hơn thì tăng ni chỉ là địa chỉ tham khảo!
Câu chuyện mỗi lúc một sâu và xa hơn, một cậu cư sĩ trẻ tuổi nhìn thiền sư rồi hỏi:
– Xin hỏi người đi chùa ngày một đông và chùa chiền ngày một tráng lệ sao có người lại bảo thời này là đời mạt pháp?
Lão thiền sư bật cười:
-Tinh thần chánh pháp không thể tính trên số người đi chùa hay số đo chiều cao, chiều rộng của chùa tháp. Hãy chọn bừa một vài người trong biển người đi chùa rồi hỏi họ lý do đến chùa, hay hỏi tăng ni tiết mục nào quan trọng nhất trong các buổi lễ đông đảo, lúc đó ông sẽ thấy chánh pháp chỉ là một khái niệm xa xỉ và viễn tưởng.
Thử hỏi ai là người phải chịu trách nhiệm cho sự tình này? Câu trả lời có lẽ phải là cả hai phía tăng ni và cư sĩ. Nói rốt ráo thì tăng hay tục đều là khách trầm luân như nhau, cư sĩ có lòng cầu giải thoát thì không thể tự cho mình cái quyền dễ ngươi trong cái gọi là đạo nghiệp tu hành. Mai kia trên giường chết mọi người đều phải một bóng lên đường vào cuộc đi mù mịt của kiếp tử sinh. Nhưng hiếm người cư sĩ thấy ra lẽ này. Vì sao lại thế chứ?
Bởi từ lâu ngày họ đã được hướng dẫn kín đáo rằng cứ có nhiều tiền thì có thể nhờ người khác hộ niệm, khỏi phải tu học gì hết. Trường hợp thứ ba còn thảm hơn: Cúng dường mạnh tay để quảng cáo bản thân, tính ra rẻ tiền mà hiệu quả hơn việc lên báo, lên đài. Đại khái đời mạt pháp là thời điểm mà hầu hết tăng ni và cư sĩ đều thích mở nhà hàng nhưng thức ăn toàn là đồ hộp, chỉ việc khui ra hâm nóng rồi đặt lên bàn cho khách. Đó không là mạt pháp thì còn chờ lúc nào nữa.
Khách lại hỏi thêm:
-Dám hỏi thiền sư một vài dấu hiệu đặc trưng của đời mạt pháp để chúng con biết mà thêm tinh tấn?
Thiền sư nhắm mắt một lát rồi nhìn xuống trả lời:
-Đại khái tăng ni không muốn giỏi nhưng thích được khen giỏi, khoái sống như phàm nhưng lại muốn được xem là thánh, coi chùa quan trọng hơn Phật. Về phía cư sĩ, hiếm người đến với tăng ni để học đạo giải thoát. Thường người đến chùa chỉ nằm trong vài ba trường hợp: Do hoàn cảnh mà quen biết tăng ni rồi lui tới như bè bạn, lâu ngày tự nhiên có được nhãn hiệu Phật tử, hoặc xem tăng ni như trung gian giúp họ liên lạc với một cõi trên nào đó để van xin khấn khứa.
Những hướng dẫn sơ sài thiếu trách nhiệm của tăng ni không đáng cho cư sĩ cúc cung tận tụy để hồi đáp. Một người bệnh không có lý do gì phải một đời thờ phụng lang băm. Cái họ cần phải là thuốc hay, thầy giỏi. Một quan hệ thầy trò dựa trên niềm tin mù quáng kiểu đó dễ khiến đệ tử thành ra nô lệ hơn là học trò của thầy, một kiểu nô lệ chung thân không có tiền công và cái họ nhận được chỉ là một xấp vàng mã!
Có câu chuyện đáng buồn này ta đọc được ở đâu đó lâu lắm rồi, mà mỗi lần nhớ lại cứ nghe ngậm ngùi mà ray rứt khôn nguôi.
Có đôi vợ chồng nhà kia nghèo khổ cơ cực lắm, còng lưng làm lụng mà vẫn không đủ ăn, đã vậy mỗi ngày còn phải dành ra ít tiền xương máu để trả dần một món nợ lớn mà họ đã vay từ nhiều năm trước. Nhắm sống ở quê nhà không xong, họ dắt díu nhau biệt xứ đi làm thuê ở một chốn xa. Ngày trả xong món nợ kia cũng là lúc họ đã bạc tóc, thân tàn ma dại, người quen ngày nào gặp lại đố mà nhận ra họ là ai. Vậy mà trời xuôi đất khiến, một ngày kia, giữa chốn xứ lạ quê người, hai vợ chồng nghèo kia gặp lại đúng người chủ nợ năm nào. Đó là một người bạn cũ giàu có và tốt bụng.
Người bạn nhà giàu sững sờ nhìn cặp vợ chồng nghèo trong bộ dạng tả tơi ốm đói:
-Sao lại ra nông nỗi nầy chứ, hai người đi đâu mười mấy năm nay, rồi giờ sống ra sao mà ngó thảm quá thế này?
Hai vợ chồng nghèo nhìn nhau rồi lại nhìn cô bạn giàu có, họ ngập ngừng ngượng nghịu một đổi rồi cô vợ nhìn vào mắt người đối diện:
-Bồ có nhớ chuyện mười mấy năm trước đã cho tui mượn sợi chuỗi ngọc để đi dự tiệc không?
Cô bạn gật đầu:
– Nhớ chứ, vì hình như sau đó không lâu thì bạn bè kháo nhau là hai người đã mất tích, không ai liên lạc được.
Người thiếu phụ nghèo khổ khó khăn lắm mới có thể nói tiếp:
-Sau đêm đó tụi này làm mất chuỗi ngọc, đến tận giờ cũng không biết nó đã rơi mất ở đâu hay bị ai lấy trộm, nói ra sợ bồ không tin rồi nghĩ quấy.
Cô bạn nhà giàu nóng ruột:
-Rồi sao nữa hả?
Anh chồng của người thiếu phụ nói thay vợ:
-Tụi tôi cầm cố hết nhà cửa, bán luôn miếng đất hương hỏa rồi mượn thêm chỗ này chỗ kia để có tiền tìm mua một xâu chuỗi ngọc giống hệt của bà để đền lại. Rồi từ đó bỏ xứ đi luôn. Mãi đến gần đây mới trả xong món tiền nợ năm đó. Giờ ra đường thấy ai đeo chuỗi ngọc giống vậy cũng sợ điếng hồn không dám nhìn nữa.
Cô bạn giàu có nghe đến đó thì đưa hai tay ôm đầu kêu trời:
-Úy trời đất, xâu chuỗi tôi cho hai người mượn năm đó là đồ giả, đeo cho vui vậy thôi. Từ lúc mấy người đem trả lại đến nay tôi có bao giờ đụng đến nó nữa đâu. Trời ơi là trời, vậy là tiêu mất một đời của ông bà chỉ vì cái món đồ quỷ đó.
Cả ba người đều khóc, và cả ta nữa, lần đầu đọc được câu chuyện đó cũng nghe xót xa không chịu nổi.
Nhưng câu chuyện đó không phải hư cấu đâu, nó có thật và xảy ra từng ngày trên hành tinh này khi từng bữa trong thiên hạ vẫn có biết bao người phải trả một cái giá thiệt đắt cho những thứ hàng hoá không đáng để họ chạm tay. Đó là những sản phẩm chính trị, tôn giáo, xã hội…được tạo ra từ những động lực như gian trá, ích kỷ, dốt nát, vô cảm, tắc trách mà cái nào cũng độc hết, cái nào cũng để lại những tác hại là hút cạn sinh lực hay khiến người ta hoang phí kiếp nhân sinh một cách oan uổng tức tưởi.
Lão thiền sư đột nhiên trỏ tay lên chiếc đồng hồ trên vách:
-Bốn lăm rồi, hồi nãy ai nói có chuyến tàu lúc 15, rửa mặt uống nước rồi tà tà đi là vừa. Đi mà trả cho xong mấy món nợ đời!
Ông cười hiền khô, rồi đứng dậy vói lấy tay nải, nói mà không nhìn ai trong đám khách:
-Ta có việc phải vào làng, am gần ga, biết đâu lại có dịp mấy người lỡ chuyến tàu mà ghé đây gặp lại.
Dáng người gầy gò của nhà sư già nhanh chóng chìm khuất trong đám lau trắng. Nắng chiều bỗng vàng rực như lửa, có chút gió ở đâu thổi về mang theo cái mùi ngai ngái của một trại bò nào đó. Tiếng còi tàu lửa vang lên từ cuối chân trời. Đám khách rời am và có người vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại đồi lau. Thảo am của nhà sư già không còn ở đó nữa. Nó khuất tầm nhìn của họ hay là nó chưa từng tồn tại…


TOẠI KHANH
Nguồn ảnh: https://vuadeplop.com



Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian

22.9.22

ĐƯỜNG XA VẠN DẶM

ĐƯỜNG XA VẠN DẶM 


Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā Buddham pūjemi

Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā Dhammam pūjemi

Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā Sangham pūjemi

ĐƯỜNG XA VẠN DẶM


- Kinh Rải Tâm Từ Metta Chanting https://theravada.vn/kinh-rai-tam-tu-metta-chating-pali-viet/



Metta Chanting Rải tâm từ Ahaṃ avero homi
Abyāpajjo homi
Anīgho homi Sukhī attānaṃ pariharāmi Nguyện cho tôi thoát được mọi oan trái.

tâm không phiền não.

thân không đau đớn.
thân tâm được an lạc.

Mama mātā-pitu-ācariyā ca nātimittā ca Sabrahmācarino ca

Averā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu

Nguyện cầu cho cha mẹ, thầy tổ, bà con, bạn bè và đạo hữu

thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc.

Imasmim ārāme sabbe yogino

Averā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu

Nguyện cầu cho tất cả thiền sinh nơi đây

thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc.

Imasmay ārāme sabbe bikkhu sāmanarā ca upāsaka – upasikāyo ca

Averā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu

Nguyện cầu cho tất cả chư tăng, sa di, nam và nữ cư sĩ ở nơi đây

thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc.

Amhākam catupaccaya – dāyakā

Averā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu 

Nguyện cầu cho tất cả thí chủ cúng dường bốn loại đồ dùng (cho chư tăng, ni)

thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc.

Amhākam ārakkha – devatā, imasmim vihāre imasmim āvāse imasmim ārāme
Ārakkha devatāAverā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu 

Nguyện cầu cho tất cả chư thiên hộ trì ở tu viện này, ở chổ ở này, ở khu vực này,
các chư thiên hộ trì, 
thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc.

Sabbe sattā, sabbe pāṇā, sabbe bhūtā, sabbe puggalā, sabbe attabhāvapariyāpannā,

sabba itthiyo, sabbe purisā, sabbe ariyā, sabbe anariyā, sabbe devā,
sabbe manussā, sabbe vinipātikā

Averā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu

Dukkhā muccantu

Yatāladdha – sampattito mā vigacchantu

Kamassakā

Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh, các loài có hô hấp, các loài động vật, các loài sinh vật, các loài có thân và tâm,
tất cả nữ giới, nam giới, bậc thánh, người phàm, chư thiên, loài người,(và) chúng sanh trong bốn cõi khổ 
thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc,

hết khổ đau,

không bị tước đoạt hạnh phúc đã có.

Mỗi chúng sanh là chủ nhân của nghiệp do mình tạo ra.

Puratthimāya disāya, Pacchimāya disāya, Uttarāya disāya, Dakkhiṇāya disāya,
Puratthimāya anudisāya, Pacchimāya anudisāya, Uttarāya anudisāya, Dakkhiṇāya anudisāya, Heṭṭhimāya disāya, Uparimāya disāya.
Nơi hướng Ðông, Nơi hướng Tây,
Nơi hướng Bắc, Nơi hướng Nam, 
Nơi hướng Ðông Nam, Nơi hướng Tây Bắc, Nơi hướng Ðông Bắc, Nơi hướng Tây Nam, Nơi hướng dưới, Nơi hướng trên. Averā hontu

Abyāpajjā hontu
Anīghā hontu
Sukhī attānaṃ pariharantu

Dukkhā muccacntu

Yatāladdha – sampattito mā vigacchantu

Kamassakā

thoát khỏi mọi oan trái,

tâm không phiền não,
thân không đau đớn,

giữ gìn thân tâm được an lạc,

hết khổ đau,

không bị tước đoạt hạnh phúc đã có.

Mỗi chúng sanh là chủ nhân của nghiệp do mình tạo ra.

Uddham yāva bhavaggā ca

Adho yāva avīcito 

Samantā cakkavālesu 

Ye sattā pathavī – carā

Abyāpajjha niverā ca 

Niddukkhā ca nupaddavā

Xa đến cõi cao nhất,

xuống đến cõi thấp nhất, 

trong toàn thể vũ trụ, 

tất cả chúng sanh đi trên đất,

được thoát khỏi phiền não và thù hận, 

tránh được đau đớn và hiểm nguy.

Uddham yāva bhavaggā ca

Adho yāva avīcito 

Samantā cakkavālesu 

Ye sattā udake – carā

Abyāpajjha niverā ca 

Niddukkhā ca nupaddavā

Xa đến cõi cao nhất,

xuống đến cõi thấp nhất, 

trong toàn thể vũ trụ, 

tất cả chúng sanh sống trong nước,

được thoát khỏi phiền não và thù hận, 

tránh được đau đớn và hiểm nguy.

Uddham yāva bhavaggā ca

Adho yāva avīcito 

Samantā cakkavālesu 

Ye sattā ākāse – carā

Abyāpajjha niverā ca 

Niddukkhā ca nupaddavā

Xa đến cõi cao nhất,

xuống đến cõi thấp nhất, 

trong toàn thể vũ trụ, 

tất cả chúng sanh ở trong không gian,

được thoát khỏi phiền não và thù hận, 

tránh được đau đớn và hiểm nguy.

Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā Buddham pūjemi

Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā Dhammam pūjemi

Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā Sangham pūjemi

Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường Đức Phật Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường Pháp Bảo

Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường Tăng Bảo 

Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā mātāpitaro pūjemi Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường cha mẹ Imāya Dhammā ‘nudhammapatipattiyā ācariye pūjemi Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường thầy tổ Addh ā imāya patipadāya jarāmaranamhā parimusissāmi

Idam me puññam āsavakkhayāvaham hotu

Idam me silam magga – phala ñănassa paccayo hotu

Với việc hành thiền này, nguyện cho tôi thoát khỏi sự khổ của già và chết

Nguyện cho những phước lành của tôi
dẫn đến sự tận diệt những lậu hoặc 

Nguyện cho giới đức (trong sạch) của tôi
sẽ là duyên lành dẫn đến Đạo và Quả

Idam no puñña – bhāgam sabbasattānam dema Chúng tôi xin hồi hướng phước báu
đến tất cả chúng sanh Sabbe sattā sukhitā hontu Nguyện cầu tất cả chúng sanh được an vui Sadhu! Sadhu! Sadhu! Lành thay! Lành thay! Lành thay!



Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian