Search

Hiển thị các bài đăng có nhãn SUNLUN SAYADAW. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUNLUN SAYADAW. Hiển thị tất cả bài đăng

29.5.25

Thiền sư Sunlun Sayadaw. Những vị Thiền sư đương thời

Thiền sư Sunlun Sayadaw: Thiền sư Sunlun Sayadaw có được tên gọi như vậy là vì ngài đến từ hang động tu viện làng Sunlun ở gần Myingyan ở miền Trung Miến Ðiện. 


Ngài sinh ra vào năm 1878 và được đặt tên là U Kyaw Din. Lớn lên ngài được gởi đến một trường đạo, nhưng ở đó ngài học ít thôi. Lúc mười lăm tuổi ngài vào làm việc như một cậu bé văn phòng. Ơủ văn phòng đại biểu chánh quyền quận ở Myingyan. Người kết hôn với một thiếu nữ Ma Shawe Yi ở cùng làng. Năm ba mươi tuổi, ngài khước từ chức vụ của mình và trở về ngôi làng quê để làm nông dân. Ngài thấy rằng cánh đồng của mình thì phì nhiêu trong khi đó thì những cánh đồng khác thì thất mùa. Năm 1919 có một nạn bịnh dịch, ngôi làng của ngài vẫn thịnh vượng. Người Miến Ðiện tin tưởng rằng nếu tài sản của ai đó có được một cách mau lẹ, người ấy sẽ chết sớm. Lo sợ vì tài sản của mình, nên U Kyaw Din hỏi ý kiến một nhà chiêm tinh. Ông ta đã bảo rằng một chúng sinh có hai chân sẽ từ bỏ nhà của ông sớm. Ðiều đó ngụ ý nói là ngài sẽ chết. 

Trong nỗi niềm lo sợ to tát đó, U Kyaw Din quyết định hoàn thành một công việc phước thiện to lớn. Ngài dựng một rạp trước nhà của ngài và mời dân làng đến ăn ba ngày. Vào ngày thứ ba, một du sĩ khổ hạnh không mời mà xuất hiện trong buổi tiệc. Du sĩ bắt đầu nói về thực hành thiền quán và khi nghe những danh từ này, U Kyaw Din trở nên xúc động mạnh. Ngài không thể ngủ được đêm đó. Ngài muốn thực hành nhưng ngại không dám nói vì bản thân thiếu hiểu biết kinh điển. Ngày hôm sau ngài hỏi du sĩ không biết có người nào không am tường kinh điển mà có thể tu pháp hành được không? Du sĩ trả lời rằng thực hành thiền quán không cần đòi hỏi kiến thức về giáo lý mà chỉ cần sự chuyên tâm và thích thú là đủ. Du sĩ dạy U Kyaw Din thực hành hơi thở vào và hơi thở ra. Thế là từ ngày hôm đó, bất cứ lúc nào có thời gian, ngài tức khắc niệm hơi thở. Mộảt hôm nọ ngài gặp một người bạn, ông bạn ấy bảo ngài rằng, trực tiếp thở vào và thở ra cũng chưa đủ; mà cần phải cảm nhận hơi thở ở chóp mũi nữa.

U Kyaw Din thực hành cảm nhận hơi thở. Thế rồi lúc đó sự thực hành của ngài trở nên mãnh liệt hơn, ngài cố nhận biết không những cảm nhận hơi thở mà còn cảm nhận tay cầm dao khi ngài chẻ củi, cảm nhận sợi dây thừng trên tay khi ngài quay nước, cảm nhận bàn chân trên đất khi ngài đi. Ngài cố cảm nhận mọi thứ khi ngài làm. Lúc giữ trâu, ngài ngồi dưới gốc cây và thực hành chánh niệm hơi thở. Suốt thời gian thực hành, ngài bắt đầu nhìn thấy những ánh sáng màu sắc và những kiểu mẫu hình học. Ngài không biết chúng là gì, nhưng cảm thấy rằng đó là kết quả của sự thực hành. Ðiều đó động viên ngài rất nhiều và ngài bắt đầu thực hành chuyên cần hơn. Nhờ thực hành chuyên chú, đôi khi những cảm thọ rất khó chịu, nhưng chúng không cản trở ngài được. Ngài tin rằng chúng là kết quả của sự thực hành, và nếu ngài muốn đạt được kết quả lớn hơn thì ngài sẽ phải khắc phục và vượt qua chúng. Từ đó ngài quyết tâm nỗ lực và phát huy chánh niệm để khắc phục những cảm thọ bất lạc và vượt đến giai đoạn cao hơn của sự thực hành.
Thiền sư Sunlun Sayadaw



Nhờ nhứt tâm nỗ lực, U Kyaw Din đắc được đạo quả Tu-đà-huờn – hương vị Níp-bàn đầu tiên – giữa năm 1920. Tháng sau, ngài đắc được đạo quả Tư-đa-hàm. Tháng thứ ba ngài đắc được đạo quả A-na-hàm. Ngài xin phép hiền thê để xuất gia; bà nhiều lần khước từ, nhưng sau đó bà đồng ý. Trước khi đi, U Kyaw Din sắp xếp cho việc đồng áng. Hướng dẫn cho hiền nội cách thức gieo trồng, trả tự do cho loài thú. Ðặt ách xuống một cội cây, ngài đi đến một tu viện trong làng, và cầu xin chư tăng ở đó chấp nhận ngài làm một vị Sa-di trong giáo hội. Sau đó, ngài tìm đến một hang động và tu tập chuyên cần. Cho đến tháng mười năm 1920, ngài đạt được đạo quả giải thoát cuối cùng A-la-hán. Sự thành đạt của ngài trong hàng ngũ chư tăng ai cũng biết đến và nhiều vị đến thử nghiệm ngài. Ngài là bậc giải thoát hoàn toàn, cho nên những câu trả lời của ngài giải tỏa những thắc mắc cho những ai tìm học. Cũng có nhiều lần, họ không đồng quan điểm với câu giải đáp của ngài, nhưng khi được đối chứng với kinh điển thì họ thấy lời nói của ngài là đúng. Nhiều vị tỳ khưu uyên bác ở khắp thế giới đi đến thực hành chánh niệm dưới sự hướng dẫn của ngài, có một vị rất uyên bác tên là Nyaung Sayadaw, vị này cũng đã giác ngộ sau khi thực hành thiền quán. Ðến năm 1952, thiền sư Sunlun Sayadaw viên tịch.

Thiền sư Sunlun Sayadaw là một người trung thực, lời nói nghiêm túc và súc tích, ngài có một sức mạnh nội tâm và rất cương quyết. Bức ảnh của ngài tỏ ra một con người đầy khí phách với một cái nhìn sâu sắc, và đôi mắt thật sáng. Nhìn vào bức ảnh, ta thấy toát ra một đức tánh vĩ đại, tượng trưng cho một con người thực sự giác ngộ.

Hiện nay có một số thiền sư dạy phương pháp tu tập của ngài ở khắp Miến Ðiện, và nhiều trung tâm thiền của Sunlun Sayadaw được thành lập ở thủ đô Miến Ðiện. Một trong những trung tâm lớn nhứt là thiền viện S. Okkalapa có hai vị hòa thượng trú ngụ, một là ngài U Tiloka, hai là ngài U Thondera, cả hai đều là đệ tử thâm niên của thiền sư Sunlun. Ơủ đây chỉ có hai mươi vị tỳ khưu cư ngụ, vì những lều và phòng lớn còn lại dành cho cư sĩ tu tập. Nhóm thiền tọa hành bốn hoặc năm lần mỗi ngày, sau mỗi lần chuyên tâm hành, thì thiền sư thuyết pháp động viên: “Quý vị may mắn được sinh làm người và thậm chí may mắn hơn nữa là được nghe chánh pháp, quý vị nên lợi dụng cơ hội đặc biệt này để tu tập, thật sự chuyên cần và nỗ lực để đạt đến sự giác ngộ”.

Thiền đường lớn thì thường đầy ắp vài trăm hành giả ở mọi lứa tuổi. Họ có thể ngồi kéo dài hai hoặc nhiều giờ hơn nữa. Trong suốt bốn mươi lăm phút đầu, thiền sinh tập trung thực hành đề mục thiền hơi thở khắc khổ. Theo lời dạy của thiền sư, sau đó hành giả trở lại niệm cảm giác trong thân, tiếp tục ngồi bất động cho đến khi hết thời gian hai hoặc ba giờ.

Những vị thầy dạy thiền theo phương pháp của thiền sư Sunlun Sayadaw nhấn mạnh rằng, những phương pháp của các vị thì rõ ràng nhứt, đơn giản và trực chỉ nhứt. Chư vị có lẽ thấy phương pháp tu cởi mở của thiền sư Achaan Chaa và Budhdadasa quá sơ đẳng và không trực chỉ, và phê bình những phương pháp tu khác như phương pháp tu Mahasi và Tanngpulu Sayadaw coi những phương pháp này như sự phát huy định xuyên qua những ý niệm mà không có trực chỉ tuệ giác.

Ðặc biệt nhấn mạnh vào sự tinh tấn tích cực, tập trung trực tiếp vào cảm thọ (đặc biệt thọ khổ) là chìa khóa tu tập của thiền sư Sunlun. Ði vào thiền đường, nhiều hành giả của thiền sư Sunlun thực tập hơi thở sâu giống như đi tìm chính mình ở giữa vòng tròn nghị lực. Nhờ theo dõi hơi thở sâu nên nỗ lực tinh tấn này làm tập trung tâm, khi ngồi trang nghiêm bất động, hoàn toàn kinh nghiệm những cảm thọ trong thân làm sâu sắùc thêm sự tu tập tuệ giác. Sử dụng cảm thọ, đặc biệt là khổ thọ, là những gì hầu hết được trình bày trong phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun. Nó là mục tiêu rõ ràng, trực tiếp tinh tấn trong mỗi oai nghi ngồi để phát huy định và tuệ điều đó sẽ dẫn đến giải thoát giác ngộ (Nirvana). Ở đó nhấn mạnh đến oai nghi ngồi lâu và bất động. Lúc còn là một nhà sư, khi tu tập ở trung tâm thiền Sunlun, tôi được trao một xâu chuỗi Miến Ðiện đẹp. Những người cư sĩ mộ đạo dâng một xâu chuỗi cho tôi với lòng thành ao ước là cả đêm nay có lẽ tôi sẽ ngồi liên tục mà không nhúc nhích, và sau đó đắc được Níp-bàn sớm hơn.

Tinh tấn tích cực để khắc phục đau nhức và sự phóng túng là phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun Sayadaw. Sức mạnh tập trung sâu vào hơi thở mới thích hợp để hành giả khắc phục năm triền cái mà thường chúng làm phóng túng tâm của hành giả. Khi nào quý vị cảm thấy buồn ngủ, chỉ tập trung một hơi thở sâu trên cảm xúc ở chót mũi thì quý vị sẽ tỉnh lại ngay. Phương pháp này có giá trị làm dịu đi một tâm thức phóng túng, lay động, vì đối diện với sự tinh tấn tích cực sâu trong hơi thở, nên hầu hết những tư tưởng bị phá tan giống như những đám mây trước một ngọn gió.

Phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun là thanh lọc tâm hôn trầm và phóng túng, để lại cho hành giả sự trong sạch và sự tập trung. Xa hơn nữa, quan sát đặc tính của tâm thì niệm đau nhức và biến đổi những cảm giác sẽ làm cho chánh niệm trở nên vững chắc hơn. Trong một thời gian ngắn, với sự thực hành này hành giả có thể cảm nhận được sức mạnh của tâm an tịnh, tập trung mà khi đã áp dụng để quan sát tiến trình thân tâm, hành giả sẽ đạt đến tuệ giác và sự giác ngộ.

Trung tâm thiền S. Okkalapa của thiền sư Sunlun rất dễ thu hút đối với những hành giả phương Tây. Ơủ đây như bất kỳ nơi nào khác ở Miến Ðiện, sự hiếu khách đối với những hành giả tham quan rất dạt dào. Mặc dù ngài thiền sư Sayadaw không nói được tiếng Anh, nhưng ngài có những đệ tử nói tiếng Anh lưu loát và rõ ràng, những người đó có thể dịch cho du khách hiểu được. Ngài thiền sư Sayadaw sẵn sàng trả lời những câu hỏi nhưng nhấn mạnh chủ yếu là tu tập tích cực, chỉ có cách đó mới thực sự giải tỏa những nghi ngờ về pháp bảo

- Nguồn: Những vị Thiền sư đương thời.  Living Buddhist Masters, by Jack Kornfield. Tỳ kheo Thiện Minh dịch Việt. Sài Gòn, 1999



 



Xem thêm:
Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều

20.3.24

TUỆ GIÁC SUNLUN SAYADAW (MYINGYAN)

TUỆ GIÁC SUNLUN SAYADAW (MYINGYAN)


Dưới đây là những câu trả lời về Phật Pháp và trí tuệ giác ngộ của Ngài Sunlun Sayadaw cho những câu hỏi của Ngài Yay-Lai Sayadaw ở Meik-Hti-Lar. Khi trả lời những câu hỏi này, Ngài Sunlun vẫn còn là một Sa-di bán thế xuất gia và lúc đó chỉ được gọi là sư Shin Kavi. Nguyên do của cuộc hội thoại này là bởi ngài Yay-Lai Sayadaw muốn kiểm chứng khả năng tuệ giác của Sa-di Shin Kavi. Ngài không trực tiếp đến gặp mặt mà chỉ cử hai người cư sĩ là ông U Pyo Thar và ông U Ba San thay Ngài đến vấn đạo.

Hỏi : Cái gì đã tạo nên tam giới ?

Đáp : Chính là tham ái.

Hỏi : Hạt giống của 3 Hành là gì ?

Đáp : Đó chính là Vô Minh.

Hỏi : Hành nói gọn là sao thưa Ngài?

Đáp : Chỉ là thiện nghiệp, ác nghiệp.

Hỏi : Xin nói ngắn gọn về đau khổ và hạnh phúc ?

Đáp : Nói đơn giản thì nhân thiện và quả thiện chính là hạnh phúc và nhân cá quả ác chính là đau khổ. Nhưng nói rốt ráo thiện ác nhân quả đều khổ cả.

Hỏi : Nhưng rõ ràng thưa Ngài, Thế Tôn có nói đến hạnh phúc nhân thiên kia mà ?

Đáp : Trong cách nhìn của thế giới Tục Đế thì chuyện đó có thật, nhưng trong cái nhìn Chân Đế thì mọi sự không phải vậy.

Hỏi : Nói như vậy thì không có ai sa đọa hay sanh thiên phải không?

Đáp : Trong cái nhìn Chân Đế thì không có ai siêu đọa.

Hỏi : Nhưng khổ ưu và hỷ lạc thì sao thưa Ngài?

Đáp : Trong Chân Đế có khổ ưu và hỷ lạc nhưng không có ai bị khổ ưu hay được hoan hỷ.

Hỏi : Vậy cái gì cảm nhận những thứ cảm thọ đó ?

Đáp : Chỉ có Danh và Sắc.

Hỏi : Vậy theo Ngài thì ta nên nói sao về giới sát sanh?

Đáp : Cả người giết lẫn đối tượng bị giết đều chỉ là Danh sắc.

Hỏi : Nếu nói không có ai thì sao có thể bảo rằng kẻ sát sanh có thể bị đọa địa ngục ?

Đáp : Chính Danh Sắc làm việc sát sanh (cắt đứt mạng quyền tức sức sống của năm uẩn nào đó) và chúng tạo ra khối Danh Sắc khác chịu khổ ở địa ngục. Trong việc làm thiện hay giải thoát cũng cứ vậy mà hiểu.

Hỏi : Xin nói rõ hơn về người ác, người thiện ở đời?

Đáp : Gọi là người ác hay thiện chỉ đơn giản là trong khối Danh Pháp nào có nhiều tâm sở thiện hay ác và Sắc Pháp có bị điều khiển hay sử dụng bởi Danh Pháp thiện ác đó hay không.

Hỏi : Chánh Kiến là sao thưa Ngài?

Đáp : Mù tịt về Danh Sắc thì không gọi là chánh kiến được.

Hỏi : Có sự quan hệ nào giữa Ba-la-mật và trí tuệ về Danh Sắc?

Đáp : Chắc chắn phải có, vấn đề là ít nhiều, sâu cạn rộng hẹp mà thôi.

Hỏi : Như vậy trí tuệ về Chân Đế là tuyệt đối cần thiết phải không Ngài ?

Đáp : Tôi nói ông nghe cái này, ông vốn đã có trí tuệ Tục Đế từ vô lượng kiếp rồi mà nay ông vẫn vậy. Nhưng nếu trước đây ông chỉ cần một lần thành tựu trí tuệ Chân đế thì hôm nay tôi không còn dịp thấy ông.

Hỏi : Con nghe hình như Tục Đế hay Chân Đế đều được gọi là sự thật (sacca) nhưng sao Ngài lại có vẽ coi nhẹ Tục Đế ?

Đáp : Tục Đế chỉ là cái võ màu mè của Chân Đế. Chỉ Chân Đế mới đúng là sự thật rốt ráo.

Hỏi : Dựa vào cái gì và từ lúc nào một người được gọi là Chánh Kiến thưa Ngài?

Đáp : Chỉ có người dứt hẳn Tà Kiến và Hoài Nghi mới có thể được xem là Chánh Kiến.

*
SUNLUN SAYADAW sư Shin Kavi



Ngài Nyaung Lunt đến gặp sư Kavi để vừa vấn đạo vừa giảo nghiệm. Như nhận ra dụng ý này, sư Kavi đã lễ phép dặn dò Ngài Sayadaw một câu :

- Bạch Ngài, trong cuộc nói chuyện này, trước khi trả lời những câu hỏi của ngài con xin ngài tự phân định rõ cái gì thuộc pháp Hiệp thế và cái gì thuộc pháp Siêu thế. Xác định rõ rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng nói chuyện hơn.

Sau đây là phần vấn đáp giữa Sư Shin Kavi (Sunlun Sayadaw sau này) và ngài Nyaung-Lunt :

Hỏi : Sư có thể nói cho tôi nghe chút ít về 5 tầng thiền Hiệp Thế được không ?

Đáp : Tôi không có học nhiều, xin ngài cho phép tôi nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ của tôi.

Hỏi : Sư thấy sao tiện thì thôi.

Đáp : Theo chỗ tôi hiểu thì ngài đang hỏi tôi về đối tượng của Thiền Chỉ. Tầng thiền nào cũng vậy, chỉ đơn giản là sự chú tâm vào cảnh. Lần đầu tiên 5 Triền Cái vắng mặt, 5 chi thiền có đủ, ta gọi đó là Sơ Thiền. Tiếp theo sau đó chi thiền mất dần, cảnh cũng vi tế dần thì ta gọi là Nhị, Tam, Tứ, Ngũ thiền. Hành giả lúc đó có thể nói là hình người nhưng da thịt của chim hạc : Nhìn vẫn như cũ nhưng nhẹ nhàng và an lạc hơn.

Hỏi : Xin ngài nói rõ hơn một chút được không ?
Đáp : Thiền Samatha chỉ là sự gom tâm vào cảnh. Tâm càng an, thì thân càng lạc. Lúc còn nặng nề chút ít thì ta gọi là Sơ thiền, ở mức không thể cao hơn nữa thì ta gọi là Ngũ thiền.

Hỏi : Ngài có cách trả lời thật lạ, nhưng tôi hiểu rồi. Và xin hỏi thêm là đối tượng của tầng Hư Không Vô Biên là Chân Đế hay Tục Đế ?

Đáp : Dĩ nhiên là Tục Đế.

Hỏi : Vậy đối tượng của Thức Vô Biên Xứ ?

Đáp : Trường hợp này là cảnh Chân Đế.

Hỏi : Còn cảnh của Vô sở Hữu Xứ thì sao ?

Đáp : Cảnh này là cảnh Tục Đế.

Hỏi : Vậy còn cảnh của tầng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ?

Đáp : Là cảnh Chân Đế.

Hỏi : Sư có thể nói giùm cách thức bỏ tầng thiền Vô Sắc thấp để lên tầng cao hơn ?

Đáp : Ở trình độ thiền định Sắc Giới, người ta phải hướng tâm đến tầng thiền cao hơn cái mình đang chứng để nâng cấp tầng thiền từ thấp lên cao. Nhưng ở các tầng thiền Vô sắc thì ngược lại : Hành giả phải nhìn lại cái cũ, tầng thiền mà mình đang có để nhàm chán nó rồi nhờ vậy mà chứng đắc tầng thiền cao hơn.

Có một điều lạ lùng mà thú vị, sư Kavi như mọi người đều biết thì là một người mù chữ, nhưng những người trò chuyện với sư lại thường nghe sư trích dẫn Tam tạng với câu mở đầu này "Trong kinh điển nói rằng". Lần đó ngài Nyaung Lunt Sayadaw đã dành trọn hai ngày để vấn đạo sư Kavi. Ngài không phải người thuộc lòng Tam Tạng nên đã kín đáo ghi lại hết những trích dẫn của sư Kavi rồi sau đó về chùa dò lại từng chỗ thấy đều chính xác. Điều độc đáo hơn nữa là thông qua sư Kavi, ngài hiểu ra thêm những kinh nghiệm thiền định mà xưa nay chỉ đọc trên mặt chữ thì khó bề hiểu ra.

Trích : Kinh Nghiệm Tuệ Quán Qua Các Dòng Thiền Miến Điện - Quyển 1
Dịch giả : Sư Giác Nguyên 

ghi chú: 165




Sách đọc nhiều
Bài đọc nhiều