Search

2.8.20

Lâu đài Tác giả Franz Kafka

Phanblogs Lâu đài Tác giả Franz Kafka Hoàn cảnh sáng tác và tóm tắt tác phẩm
“Lâu đài” được Kafka thai nghén trong khoảng 5 năm, từ sau khi ông được dự đoán là mắc bệnh lao vào năm 1917. Theo nhật ký của Kafka, ông đã đang chuẩn bị cho tiểu thuyết “Lâu đài” (Das Schloss) ngày 11/ 6/1914( giai đoạn thế chiến thứ nhất bùng nổ), tuy nhiên phải đến 27/1/1922 ông mới bắt đầu viết nó.

Lâu đài Tác giả Franz Kafka
Lâu đài Tác giả Franz Kafka 


Tiểu thuyết kể về K., một người làm đạc điền đến Lâu đài của bá tước West West để làm việc. Chàng được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và một chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như bà chủ quán trọ, anh chàng đưa thư Barnabás và người chị là Olga, thậm chí có người yêu là Frida, nhưng K. không sao đến được lâu đài hay gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo; anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao đến được đó, cũng như không sao gặp trực tiếp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Dù đã cố gắng hết sức để tìm hiểu Lâu đài – thiết chế quyền lực thống trị nhưng K. vẫn không thể lý giải nổi nó. K đành phải chờ và sống mòn mỏi, kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi, trong khi những người dân làng không chấp nhận chàng, cô người yêu Frida cuối cùng cũng mệt mỏi bỏ rơi K. để theo một tên phụ tá của chính chàng. Kết thúc câu chuyện K. vẫn còn lang thang vô định trước tòa lâu đài.

Cũng như nhiều tác phẩm khác của Kafka, “Lâu đài” là một câu chuyện còn dang dở. Nhà văn đã định viết tiểu thuyết tự thuật, nhưng rồi nhân vật xưng Tôi đã được chuyển thành K.. Theo Brod, người cho xuất bản cuốn tiểu thuyết, Kafka dự định sẽ kết thúc tác phẩm bằng chi tiết chàng đạc điền K., khi đã đợi chờ đến kiệt sức gần chết thì nhận được thông báo từ Lâu đài cho phép chàng lưu trú ở làng.

Nhân vật chính của “Lâu đài”, anh chàng làm nghề đạc điền K., vì phải sống mòn mỏi trong chờ đợi nên chàng có cảm tưởng hiện thực cuộc sống chỉ là những ảo ảnh, K. không sao lý giải được sự chờ đợi phi lý ấy. Được tác giả chọn lọc, nhân vật K. mang tính chất biểu trưng, nó có tầm khái quát và tạo nên hình tượng văn học ẩn chứa trong mình một tư tưởng triết học: tình trạng bị bỏ rơi nên cô đơn, bất lực, trở nên con người xa lạ giữa đời thường.Miêu tả sự bế tắc, luẩn quẩn, kết hợp những đoạn siêu thực về Lâu đài và cuộc sống của những người ở đó, tác phẩm tập trung vào sự thờ ơ của xã hội, tính quan liêu, sự vỡ mộng dường như vô hạn của nỗ lực nhằm chống lại hệ thống quan liêu đó, và sự truy tìm vô ích, vô vọng cho một mục tiêu không thể nào đạt tới.

Motif lâu đài trong sáng tác của Kafka

Có thể nói Franz Kafka là nhà văn sớm nhất kiến tạo nên thủ pháp huyền thoại trong văn học. Những dạng thức mà ông thường sử dụng là motif thần thoại phương Tây, nhại huyền thoại và huyền thoại hóa thế giới hiện thực. Và lâu đài là một trong những motif đáng chú ý nhất trong sáng tác của ông.

Motif lâu đài (hay gọi chính xác hơn là motif mê cung) nằm trong dạng thức thần thoại phương Tây, hình ảnh tòa lâu đài vốn là một hình ảnh thực trong đời sống nhưng khi đi vào tác phẩm của ông nó lại trở thành một cái gì đó thật “huyền thoại”, một dạng mê cung, mê thất khiến con người trở nên xa lạ, lạc lõng và mất phương hướng trong nó. Điều này đã làm nên không khí huyễn hoặc, hư ảo trong sáng tác của ông. Từ việc xây dựng motif lâu đài trên, Kafka muốn hướng người đọc tới việc hình dung những con người, thân phận con người trong đời sống hiện tại. Lâu đài hay tòa án, hang ổ là mê cung, là những nơi con người không thể nhìn thấy nhưng nó có khả năng chi phối và đè bẹp họ. Chẳng hạn như Jozep K. trong “Vụ án”chấp nhận cái chết mà vẫn không thể biết được mình mang tội gì và càng không thể hiểu được cái hệ thống tòa án đã kết tội mình. K. trong “Lâu đài” tìm kiếm Lâu đài với mong muốn mình được chấp nhận, nhưng tòa Lâu đài ẩn hiện trong màn sương dày đặc ấy cứ mãi mãi ngoài tầm với. Cái phi lí của sự tồn tại của con người là đấy: họ lạc vào mê cung của “lâu đài” thiết chế vô hình đè bẹp cuộc sống của họ và họ phải chấp nhận sự phi lí ấy để tồn tại tiếp tục.

Lâu đài trong văn chương Kafka không chỉ là một biện pháp nghệ thuật mà còn là “một biện pháp để cảm thụ thế giới”. Theo Ths.Thái Thị Hoài An thì đó “là phương tiện miêu tả ẩn dụ về thế giới, đem tới cho người đọc những cảm nhận hoặc quan niệm về thế giới thực tại của nhà văn. Nói một cách cụ thể, huyền thoại giúp F. Kafka thể hiện cảm quan của ông về sự phi lí, tha hóa, cô đơn, về thân phận trong guồng quay của xã hội hiện đại.”

Con người và nỗi cô đơn trong "Lâu đài"

“Có thể nói Franz Kafka là nhà văn đã cảm nhận một cách sâu sắc nhất nỗi cô đơn trong thời gian của con người hiện đại. Đó là nỗi cô đơn khi con người (buộc phải) giã từ quá khứ, đứng giữa hiện tại và đối diện với tương lai bấp bênh đầy bí ẩn. Ấy là khi con người cảm thấy hoang mang và lo sợ. Con người tìm kiếm và nỗ lực tạo lập các mối quan hệ mà quên mất rằng các mối quan hệ đó không giúp được nó thoát khỏi nỗi cô đơn thời gian. Nhưng chí ít thì đó cũng là một niềm an ủi, và là lối thoát cuối cùng trong sự bất lực của con người trước số phận.” (Bài viết “Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka” được in trong Lâu Đài, Nxb Văn học, 1998). Hình tượng nhân vật K. trong cuộc hành trình vô vọng tìm tới Lâu đài chính là sự thể hiện nỗi cô đơn tuyệt đối ấy.

là một người ở nơi khác được Lâu đài gọi đến để làm công việc đạc điền. Tuy nhiên, khi K. tới làng, chàng rơi vào một tình cảnh vô cùng trớ trêu. Chàng không thể làm công việc của mình vì sự nhầm lẫn mà theo như ông trưởng thôn thì ắt phải có của những người nhiều công nhiều việc, và thậm chí, chàng còn không thể xin được giấy phép lưu trú ở làng. Sự tồn tại của K. nằm bên ngoài Làng – bên ngoài xã hội.

Dõi theo những bước chân của K., độc giả sẽ nhận ra cô đơn lạc lõng chính là “từ khóa” cho hành trình của chàng. Đầu tiên, K. bơ vơ, lạc lõng trong công cuộc tìm kiếm chỗ ở. Mới đêm đầu tiên đến làng, sự xuất hiện của chàng đã có cái gì đó bất an, chàng là một “ông khách đến muộn” khiến cho chủ quán “bất ngờ và bối rối”. Sự lạc lõng đã gợn lên đâu đó ngay trong chi tiết quán trọ “không còn phòng cho thuê” – làng hết “chỗ” cho sự có mặt của K. và chính vì thế, sự có mặt của chàng dường như là thừa thãi. Rồi ngay sau đó đã bị người ta đánh thức dậy vì không có giấy phép từ ngài bá tước. Họ bắt buộc chàng phải rời đi ngay trong đêm tối và chàng thì đang vô cùng mệt mỏi. Sau này, khi đã ở trọ tại quán Bên cầu, K. càng nhận thức sự bơ vơ, lạc lõng của mình nhiều hơn nữa khi bà chủ quán trọ cứ luôn ca thán rằng K. sẽ không thể vào quán trọ của bà nếu hôm đó, tức cái hôm đầu tiên K đến, bà không lơ đãng để ông chồng của mình coi quán. Đến cả những người hầu gái, chủ nhân của căn phòng mà K. và Frida ở cũng lấy làm vui mừng khi K. phải chuyển đi. Và, khi tới ở trong trường học thì thầy giáo, người quản lý ở đó và cả những đứa trẻ cũng không chào mừng K.

Thứ hai, K. cô đơn, lạc lõng trong thân phận của mình. K. không phải người của làng nên không được làng chấp nhận. Dù đi tới đâu, K. cũng là đối tượng cho những con mắt soi mói của dân làng. Đặc biệt, lúc ở trong phòng tắm chung của làng, chàng đã bị người ta đuổi ra ngoài không thương tiếc. Mọi người không tỏ ra hiếu khách và như họ nghĩ, họ không cần sự xuất hiện của người khách đó. Với Lâu đài cũng thế. K. tuy được Lâu đài gọi đến nhưng cũng không phải là người của Lâu đài. Bằng chứng là việc Klamm gửi bức thư đầu tiên cho K. nói rằng chàng không được lên Lâu đài mà chỉ phải làm việc với ông trưởng thôn và thông báo những yêu cầu cho người đưa thư. Phạm vi cư trú và hoạt động của K. đã bị giới hạn trong một bức rào chắn. Rõ ràng, K bị cô lập hoàn toàn. Chàng sống đâu đó ở giữa mối liên kết giữa làng và Lâu đài nhưng lại không thuộc về làng, mà cũng không thuộc về Lâu đài.

Chính vì thế, K. phải cố gắng tìm kiếm những mối quan hệ. Chàng tiếp xúc với nhiều người, nói chuyện với nhiều người mặc cho họ không hề chào đón mình. Ta có thể thấy rõ điều này khi K. làm quen với người thầy giáo lúc ông ta ở cái điếm canh nhỏ sau trường học, hay khi chàng xin ghé lại nghỉ chân ở một ngôi nhà lúc bị lạc trong mê lộ đến Lâu đài. Nhân vật K. nỗ lực tìm kiếm sự quan tâm mọi người một cách vô vọng. Điều này cũng thường thấy trong các sáng tác khác của Kafka.

Nhân vật chàng đạc điền K. vô danh tới mức không có được một cái tên đầy đủ: tên chàng là một chữ viết tắt bình thường đến tầm thường, như thể nó không cần và không đáng được quan tâm. Họ của chàng hoàn toàn không được nhắc đến trong tác phẩm. Điều đó hết sức phi lý. Ở một con người, họ tên là điều cơ bản nhất. Họ là một dấu mộc của quá khứ đóng lên mỗi con người, là mối dây cơ bản nối kết người đó với tổ tiên. K. không có họ, có phải là vì nhân vật đã bị tách khỏi chỗ dựa quá khứ của mình? (Trong tác phẩm, chỉ có duy nhất một lần K. nghĩ tới chuyện lâu rồi chưa về thăm quê nhà. Hầu như chàng chỉ quan tâm tới Lâu đài ở hiện tại không bận tâm gì đến quá khứ, kể cả khi hiện tại đó có đánh đố và làm chàng mệt mỏi.) Tên, ngược lại, là một sở hữu riêng thuộc về con người, “gọi tên” một người là hành động đầu tiên cơ bản nhất thể hiện sự nhìn nhận đối với người đó. Chàng đạc điền K. không có cái tên đầy đủ, có phải là sự tồn tại của chàng đã ở mức “dưới con người” hay “ngoài cộng đồng” đối với dân chúng trong làng? Xây dựng một hình tượng nhân vật không có đến cả họ tên, có phải Kafka muốn tạo nên một ẩn dụ thâm trầm về hiện tượng con người nhỏ bé bị “mất gốc”, bị bứt khỏi những điểm tựa vốn có để bắt đầu một hành trình vô định? Một khi không còn chỗ dựa, nỗi cô đơn lạc lõng hẳn sẽ là không tránh khỏi.

Những nét tính cách nổi bật
Một con người lý trí và có óc xét đoán


K.trước hết là một con người độc lập. Chàng đủ tỉnh táo để không sợ hãi trước quyền lực của Lâu đài dù chính chàng đã rất nhiều lần chứng kiến thái độ sợ hãi của dân làng đối với quyền lực đó. “Còn nếu họ tưởng rằng việc nghiễm nhiên thừa nhận chàng là người đạc điền có thể làm cho chàng sợ thì họ đã nhầm: chàng chỉ hơi chờn chợn một chút, tất cả chỉ có thế!”. Dù sau đó Lâu đài đã thể hiện được quyền lực đối với chuyện cư ngụ của K. trong lãnh địa của họ, thế nhưng uy quyền đó cũng không làm cho chàng sợ hãi và tuân phục.

Xem xét kỹ những bức thư mà Lâu đài nói chung hay Klamm nói riêng gửi cho mình, chàng vẫn đủ tỉnh táo để dễ dàng nhận ra sự phi lý trong những bức thư đó: “Lá thư không nhất quán, có chỗ người ta nói với chàng như nói với một người tự do, có ý chí riêng: cách xưng hô hoặc chi tiết nói về những yêu cầu của chàng là những chỗ như thế. Ở chỗ khác, thì một cách thẳng thắn hoặc bóng gió, người ta xử sự với chàng như với một người lao động vô danh tiểu tốt, người mà từ chiếc ghế của một ngài chánh văn phòng nào đó thì khó mà có thể nhận ra.” Khi tranh luận với bà chủ quán và những người khác, chàng đều đưa ra những lập luận vô cùng sắc bén, khó lòng mà lật đổ được. Chàng ta cũng nhận thức rõ rằng mình có quyền từ chối cuộc thẩm vấn vô lý mà viên thư ký làng của Klamm yêu cầu mình tham gia…

Rõ ràng, K. là một người mong muốn sự tự do và sẽ cố gắng tranh đấu để tìm ra sự tự do cho mình. Chàng không dễ dàng bị khuất phục bởi quyền lực, đặc biệt là thứ quyền lực chuyên chế đến phi lý như ở Lâu đài.

Một con người nóng tính nhưng đầy quyết tâm theo đuổi mục tiêu


Ta có thể thấy K. nóng tính khi chàng liên tục chửi bới hay đánh những người giúp việc của mình chỉ vì họ nói và hành động những việc ngốc nghếch. Khi nhìn thấy những người giúp việc làm điều gì không vừa ý, thường trực ở K. là những câu nói đại loại như: “Im đi! Các anh đã bắt đầu khác nhau đấy hả?”, “Các người muốn gì tôi hoài vậy?”, “Cút! Nếu các anh đến đón tôi, tại sao các anh không mang gậy của tôi theo? Bây giờ lấy gì để tôi đuổi các anh về nhà?”… Chàng cảm thấy bực mình, khó chịu với những việc mà bọn họ làm: “Nhưng họ là gánh nặng đối với tôi”, “Không, họ chỉ bám theo đuôi tôi ở đây”, “Lại những người giúp việc”… Tuy nhiên, thái độ này hoàn toàn có thể được lý giải bằng tâm trạng chán chường của người bị níu chân trong mê lộ Lâu đài, trong chính cái soi mói, nhiễu sự của hai kẻ phụ tá đó – chúng bám theo K. hoàn toàn không phải vì công việc đạc điền.

cũng rất nôn nóng, sốt sắng trong công việc. Ngay ngày hôm sau đến làng, chàng đã cố gắng tìm đường lên Lâu đài mặc dù càng đi càng thấy mình sai đường. Việc đi theo người đưa thư cũng xuất phát từ quyết tâm tìm kiếm Lâu đài, vì chàng nghĩ anh ta sẽ lên Lâu đài ngay khi quay về.

Đồng thời, con người này cũng khiến người đọc chú ý bởi sự kiên trì, nỗ lực trong việc theo đuổi mục tiêu của mình. Chàng khao khát tìm kiếm sự thật về thế giới mà mình đang sống, muốn làm rõ ràng mọi vấn đề đang bị che lấp bởi quyền lực. Dù bị lạc nhiều lần trên con đường tìm đến Lâu đài, dù vướng phải sự nhiêu khê của những viên thư kí, sự ngăn cản quyết liệt của bà chủ quán, K. vẫn luôn kiên trì tìm đường lên đó, mặc cho cơ thể mệt mỏi và lạnh cóng. Anh cũng sẵn sàng đi theo người đưa thư mới gặp chỉ vì nghĩ anh ta có thể làm cho mình đạt được mục đích là lên được Lâu đài. Kể cả việc K. tìm đến quán Ông chủ cũng không ngoài mục đích trên.

Một con người chung thủy trong tình yêu


là một chàng trai chung thủy. Chàng yêu Frida và nhất mực bảo vệ tình yêu ấy. Dù đã nghe nhiều lời nói xấu Frida từ Pepi và Olga nhưng chàng luôn tin tưởng và bảo vệ người mình yêu trước những lời nói ấy. Dù biết Olga yêu mình nhưng chàng vẫn một mực chung thủy với Frida và luôn giữ khoảng cách với Olga. Không muốn giấu Frida bất cứ điều gì nên chàng nói cho cô biết những suy nghĩ của mình, kể cả khát khao lớn nhất là tìm đến Lâu đài, và không ngần ngại để tên giúp việc biết mình đã đến nhà Olga. Tin tưởng vào Frida nên chàng thực sự bàng hoàng khi biết Frida đã quyết định theo một tên giúp việc. Và, chàng đã tuyệt vọng cố gắng níu giữ lấy Frida khi cô ta rời đi: “Bởi vì em không yêu hắn, cùng lắm là em tưởng như thế, và em sẽ cám ơn anh nếu anh phá tan sự lầm lạc của em.” Thông qua đây, ta thấy K là một con người khát khao có một gia đình êm ấm “và bây giờ khi mà chúng ta đang chuẩn bị cưới nhau, em lại về nơi đó sao?”.

Một con người nhạy cảm với thế giới


Đây là một phẩm chất đặc biệt đáng chú ý ở nhân vật K. và cũng là dấu ấn rõ nhất mà thiên tài Kafka để lại trên nhân vật này, khiến người đọc hoàn toàn có cơ sở để suy ra rằng cái tên K. trong tác phẩm trước tiên là chính viết tắt của chữ Kafka. Franz Kafka vốn nhạy cảm đến mức cực đoan, nhưng chính sự nhạy cảm đó lại là cơ sở cho những tiên cảm của ông về thế giới, mà nói như Ernst Fischer (Áo) trong “Kafka” thì “Chính làn da mềm mại, sự nhạy cảm và bất lực của Kafka trước thế giới người cha đầy thế lực đã làm cho ông, thiên tài của sự yếu ớt, có khả năng vô cùng đặc biệt trong việc nhận biết những chi tiết và giải mã chúng như giải mã những bí ẩn của một hiện thực còn chưa được phát hiện.”

Trong “Lâu đài”, sự nhạy cảm đến kỳ quặc của chàng đạc điền K. được thể hiện trong những chi tiết rất nhỏ, chẳng hạn như trong một cuộc đối thoại vu vơ:

“- Cô là ai? – K. hỏi.

– Một cô gái đến từ Lâu đài, – nàng trả lời cộc lốc. Không thể hiểu là sự miệt thị này dành cho K. hay cho chính câu trả lời của nàng.”

Chỉ một câu trả lời quá ngắn gọn (hay quá thừa bởi hai chữ “Lâu đài”?) cũng đủ khiến cho K. cảm thấy sự miệt thị, cũng đủ khiến chàng suy nghĩ và bất an. Chàng quá nhạy cảm với “Lâu đài”, hay đúng hơn là với thiết chế quyền lực này. Cũng bằng bản chất đó, K. cảm nhận những nứt rạn đầu tiên của xã hội “kiểu Lâu đài” mà trong đó chàng đang tồn tại: “K. biết rằng người ta không thể đe dọa chàng bằng sự cưỡng chế thật sự, chàng không sợ điều đó mà chỉ sợ cái quyền uy ngoại cảnh làm cho mình chán nản, sợ sự dửng dưng mệt mỏi của mình trước những thất vọng, sợ sức mạnh của những tác động không thể nhận thấy đang từng giây lát có thể đến với chàng. Chàng cần chấp nhận cuộc đọ sức với những nguy cơ này”…

Phải lang thang không điểm tựa giữa một thế giới hoàn toàn xa lạ, dự cảm về cái mong manh tồn tại dai dẳng trong chàng ngay cả trong những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi. Có những lúc, chàng cảm thấy “hạnh phúc vì có thể giữ cô gái trong tay mình, nhưng trong hạnh phúc chàng cũng hoang mang, vì cảm thấy nếu Frida bỏ chàng thì tất cả những gì chàng có đều từ bỏ chàng”… Ôm người yêu trong tay mà vẫn nghĩ đến sự chia lìa và từ bỏ, sự đối lập đó thể hiện bản chất bất an của con người trước thế giới; tình yêu không khỏa lấp nổi sự cô đơn, không đủ đảm bảo cho sự gắn kết, không đủ làm cầu nối cho chàng đến với thế giới. Trong tình yêu, còn đó cả sự chông chênh – cũng như trong bất cứ một mối quan hệ nào khác mà nhân vật của Kafka có được.

Một khía cạnh khác của bản chất nhạy cảm trong nhân vật này là cảm giác thất vọng thường trực. “Chính chàng cũng không biết tại sao mình lại cảm thấy thất vọng đến thế khi nhận ra kẻ giúp việc…Vậy mà chàng vẫn cảm thấy thất vọng, chàng tưởng họ là người lạ chứ đâu nghĩ là những người quen cũ mà mình đã chán đến tận cổ này”.Chỉ là những kẻ giúp việc cũ cũng gây nên nỗi thất vọng. Thất vọng trở thành một phản xạ của con người trước thế giới, tiếng thở dài đó loang ra trên mọi sự vật dù là bình thường nhất. Kể cả những điều đơn giản nhất khi đi qua lăng kính của chàng cũng không còn ở nguyên trạng nữa. Không thể nói rõ được tại sao. Đó là nỗi thất vọng không thể lý giải trước một thế giới không thể lý giải.

Nếu so với kiểu con người nhỏ bé, thảm hại trong thế giới tác phẩm của Kafka (như một đứa con sẵn sàng chấp nhận bản án của người cha hay anh chàng Samsa chấp nhận vật hóa mà không hề trăn trở chuyện làm thế nào trở lại lốt người), nhân vật K. trong “Lâu đài” rõ ràng có nhiều khía cạnh tốt đẹp hơn. Chàng là một người tinh tế với nhiều suy tư, trăn trở; đồng thời cũng là một người lý trí có khả năng suy xét thấu đáo sự việc một cách độc lập. Chàng không sợ hãi hay khúm núm trước quyền lực mà ngược lại, luôn mong muốn khám phá nó, kéo mọi người xung quanh ra khỏi sự chi phối của quyền lực đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của K., tất cả những phẩm chất đó, đặc biệt là sự nhạy cảm đến khó lý giải trước những biến đổi tế vi của xã hội và con người, không giúp gì được cho chàng. Ngược lại, nó chỉ càng làm chàng cô độc hơn mà thôi.

Lâu đài – Cội nguồn của nỗi cô đơn

Sự nhạy cảm đến kỳ quặc của K. trước thế giới có thể là tiền đề cho nỗi cô đơn mà chàng phải mang; tuy nhiên, cô đơn sẽ chỉ hiện lên rõ ràng nhất khi con người tự soi mình trong một mối quan hệ nào đó. (Hẳn là kẻ sống một mình ở đảo hoang hay rừng rậm rất cô đơn, nhưng sẽ là cay đắng hơn khi người ta sống giữa một cộng đồng mà vẫn cảm thấy mình trơ trọi không nơi nương tựa. Văn chương xưa nay hay viết về nỗi cô độc của con người trước xã hội, chứ ít ai nói về nỗi cô đơn của những chàng Robinson nơi hoang đảo.) Trong tác phẩm, nỗi cô đơn của chàng đạc điền K. bộc lộ trước nhất và sâu sắc nhất trong quan hệ với Lâu đài.

Trong tác phẩm, hình ảnh Lâu đài xuất hiện từ những dòng đầu, ngay trong cảm nhận của nhân vật K.: “Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không”.

Lâu đài hiện ra trong ấn tượng của K. khi vừa đến làng; ấn tượng đó là tuyết dày, đêm khuya, sương mù và bóng tối – tất cả những chi tiết này đều chỉ gợi lên sự mơ hồ, mù mịt, cảm giác bất an cùng nỗi lạc lõng khôn cùng của con người trước thế giới. Không một chút ánh sáng nào, dù là mờ nhạt nhất, chào đón chàng. Cả đoạn văn chỉ đơn thuần là một cảm nhận, nhưng sự cô đơn dường như đã hiện hình trong thế đứng của K. – một người lữ khách – người ta cô đơn khi phải tách ra khỏi nơi tồn tại quen thuộc để đến một không gian xa lạ hoàn toàn. Hình ảnh Lâu đài xuất hiện mà thực chất là không hề xuất hiện – K. biết đến Lâu đài, biết nó tồn tại, biết nó ở đó, ngay trên ngọn đồi, nhưng chàng không thể nào nhìn thấy nó. Nỗi cô đơn đã khởi phát ngay từ đầu tác phẩm như một ám ảnh, nó sẽ theo riết K. trên suốt con đường tìm vào Lâu đài của chàng.

Nỗi cô đơn của K. không phải là thứ cô đơn bản mệnh sinh ra và tồn tại cùng với con người như một món quà không mong đợi từ Thượng đế, vốn thường được miêu tả trong nhiều tác phẩm văn học lãng mạn. Nỗi cô đơn đó có nguồn gốc, có nguyên nhân, và có cả hướng giải quyết. Qua cuộc gặp gỡ không ngờ với kẻ tự xưng là con trai Quan phòng thành, K. rõ ràng đã nhận ra rằng, chỉ cần chàng gặp gỡ và làm việc với những quan chức của Lâu đài, vấn đề của chàng sẽ được giải quyết. Trong tác phẩm, “Lâu đài” trở thành một từ đồng nghĩa với “chính quyền”. Tìm đường đến Lâu đài là tìm cách gặp những nhân vật có quyền có thể xác nhận sự hiện diện của chàng trong ngôi làng. Vì lẽ đó, K. tìm mọi cách để đến được Lâu đài. Nhưng, đó là điều bất khả. Nỗi cô đơn lúc này không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả cho nỗ lực của chàng: càng quyết tâm đến với Lâu đài, chàng càng khiến dân làng xa lánh, và Frida, cầu nối duy nhất của K. với cuộc sống ở làng, cuối cùng cũng mệt mỏi từ bỏ chàng.

Lâu đài – quyền lực thống trị ám ảnh

Vừa đến làng, K. đã được biết rằng đối với dân làng, Lâu đài là hiện thân của quyền lực ghê gớm, qua người “có quyền” đầu tiên mà chàng gặp ở đây, một gã trẻ tuổi “tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành”. Theo lời gã, “Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sống hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài, phải có giấy phép của bá tước”. Quyền lực của Lâu đài thống trị toàn bộ cuộc sống ở làng.

Nhưng, tổ chức quyền lực đó thực chất là như thế nào? Đây là hình ảnh lâu đài khi không còn sự che giấu của bóng đêm: “Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại; những ngôi nhà ở đây chỉ khác những căn nhà gỗ làng quê là được xây bằng đá, nhưng lớp vữa trên tường đã tróc từ lâu, và hình như đá cũng đã lở vụn dần ra.”. Một hình ảnh hoàn toàn không tương xứng với quyền lực mà nó (được cho là) đang nắm giữ. (Và hẳn là cũng tương phản với những gì mà K. lẫn độc giả mường tượng về Lâu đài.) Qua lần giải thiêng, biểu tượng quyền lực đó hiện ra trần trụi đến thảm hại. Nó khác biệt với những căn nhà gỗ làng quê – nhà của những người dân bình thường ở chỗ “được xây bằng đá”, nhưng chính lớp đá đó lại thể hiện rõ nét nhất cái đổ nát của biểu tượng quyền lực – Lâu đài. Hình ảnh những ngôi nhà đá với lớp vữa bong tróc và đá lở vụn dần ra hẳn không báo trước một điều gì tốt đẹp – bộ máy quyền lực đó hoàn toàn tàn tạ, xuống cấp và đang trên đà tiêu vong. Có phải đó là một lời tiên tri của Kafka dành cho thiết chế xã hội đương thời?

Tuy nhiên, dường như chỉ có mình K. là nhận ra bản chất đó. Chàng cô đơn vì chàng tỉnh táo. Còn thực tế, đối với tất cả dân làng, Lâu đài có một quyền lực khủng khiếp. Tất cả mọi người trong làng đều sợ hãi khi nhắc đến Lâu đài, và thậm chí, đến cả những người giúp việc vô danh trong Lâu đài cũng trở thành kẻ quyền lực trước dân làng. Quán rượu có đông bọn tay chân của các quý ông từ Lâu đài được coi như quán rượu hạng sang. Đối với người dân, Lâu đài là một thứ tước hiệu, một chiếc vương miện vô hình mà bất cứ ai đội lên cũng trở thành sang trọng và quyền lực.

Một ví dụ có thể kể đến là Momus, thư kí của quý ông Klamm – người “của Lâu đài”. Chỉ là một trong rất nhiều những thư kí của Klamm, thế mà quyền lực của Momus đã đến mức chỉ cần một thoáng thái độ coi thường của K., bà chủ quán đã chột dạ tới mức phải cảnh báo chàng rằng “Trong trường hợp này tôi lưu ý ông rằng con đường duy nhất có thể đưa ông đến với Klamm là đi qua các biên bản của người thư kí đây. Tôi không muốn nói quá, có thể cả con đường này cũng không dẫn tới Klamm, nó có thể dừng lại ở cách xa ông ấy, việc này tùy thuộc vào ý định của ngài thư kí. Trong mọi trường hợp thì đây là con đường duy nhất đối với ông dẫn về hướng Klamm. Chẳng nhẽ ông muốn từ bỏ con đường duy nhất này không phải vì nguyên nhân nào khác mà chỉ vì ngang bướng sao?”. Việc K. có đến được Klamm hay không tùy thuộc hoàn toàn vào một viên thư kí! Có kẻ làm thư kí nào lại sở hữu thứ quyền lực kỳ quặc đó không?

Còn với Klamm, chức sắc cao nhất trong Lâu đài, quyền lực hẳn phải hơn thế nữa. Dân làng không ai biết được Klamm, chỉ một vài người có thể thấy ông ta qua cái lỗ nhỏ ở cửa phòng, tuy nhiên quyền lực của nhân vật này lớn tới nỗi bất cứ cô gái nào mang cái danh “người tình” của ông ta đều được kính trọng đến mức phi lý. “Ông hỏi tôi có biết Klamm không, trong khi tôi là… – Nói đến đây vô tình cô ta tỏ ra vênh váo, và cái nhìn đắc thắng của cô ta không liên quan gì đến điều họ vừa nói, lại lướt đến K. – Tôi là tình nhân của ông ấy”. Sự vênh váo “vô tình” đó chứng tỏ nó đã là một thói quen, môt cái gì đó hết sức thường trực, hết sức tất yếu mà tất cả mọi người đều chấp nhận. Cô gái đã quen tỏ ra như thế với mọi người, chứ không phải với chỉ riêng mình K. Frida chỉ là một cô gái phục vụ quầy rượu, nhưng quầy rượu đó lại là nơi người hầu của Lâu đài tụ tập và quan trọng hơn cô là “người tình của Klamm” (người tình, chứ không phải người yêu!), bấy nhiêu đó đủ cho Frida tự hào, để cô vênh váo, để Pepi và mọi cô gái khác khao khát… Những chi tiết phi lý được kể lại thản nhiên và điềm tĩnh một cách không thể tin nổi. Nó thách thức K. và thách thức cả độc giả. Chàng đạc điền càng hoang mang và cô đơn vì chẳng thể nào tìm hiểu nổi phương thức tồn tại của nó, và độc giả hoang mang vì một sự phi lý được coi là quá tất yếu.

Câu chuyện của Olga về những gì mà gia đình cô phải chịu càng thể hiện rõ niềm kính sợ mù quáng đó. Chỉ thái độ thẳng thừng của Amalia với người đưa thư (chỉ là một người đưa thư!) của viên chức Lâu đài, cả gia đình cô gái đã phải trả giá quá đắt. Ông bố mất việc, bà mẹ bệnh tật, một đứa em trai không thể xác định được chính xác công việc của mình, dù anh ta đã từng đi giao một vài bức thư cho Lâu đài… Quyền lực không chỉ thể hiện trong bản thân câu chuyện, nó còn thể hiện qua cái cách mà Olga kể câu chuyện ấy, cô và gia đình cam chịu nó như một điều tất nhiên. Chính thái độ này làm K. càng khó hiểu và càng quyết tâm lý giải cho bằng được bản chất quyền lực của Lâu đài.

Lâu đài – bộ máy quyền lực quan liêu

Được kính trọng đến mức sợ hãi là thế, nhưng cung cách làm việc của bộ máy quyền lực Lâu đài khiến cho người ta chán chường và mệt mỏi. Đó là một thứ bộ máy quyền lực chuyên chế, rối rắm, khổng lồ và đầy những ngóc ngách.

Đến với lâu đài người ta phải qua cả một mê lộ – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Với quyết tâm tìm kiếm, K. vướng vào mê lộ này ngay trong ngày đầu tiên. “Chàng tiếp tục đi về phía trước, nhưng đường còn rất dài. Hóa ra con đường chính của làng lại không dẫn lên ngọn đồi có Lâu đài, mà chỉ dẫn đến gần đó, rồi như cố ý, nó rẽ ngang, không bỏ xa Lâu đài mà cũng không dẫn đến gần. […] nhưng chàng hết sức ngạc nhiên thấy cái làng này mới dài làm sao, đi mãi cũng không hết. Khắp nơi đều có tuyết, nhưng không ở đâu có một bóng người.” Những con đường thoạt nhìn tưởng như dẫn đến Lâu đài, nhưng rồi càng đi lại càng thấy xa, khiến chàng mệt mỏi và mất phương hướng. Hành trình tìm gặp viên chức sắc Klamm chẳng hề khá hơn. K. gặp hàng loạt thư kí, hàng loạt viên chức, hàng loạt cuộc hẹn, thậm chí còn nhận được một bức thư được cho là của Klamm… nhưng rồi tất cả đều là vô nghĩa, và chàng vẫn hoàn toàn là một kẻ không được thừa nhận, hoàn toàn xa lạ với Làng.

Đó là bên ngoài, là đường đến Lâu đài. Còn bên trong, lối làm việc của Lâu đài vô cùng quan liêu và mâu thuẫn. Ngay từ đầu tác phẩm, một đoạn đối thoại giữa K. với kẻ tự xưng là con trai Quan phòng thành cũng đủ cho ta thấy điều đó:

“- Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sống hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài, phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem.

chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi:

– Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à?

– Có chứ! – Gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. – Lâu đài của bá tước West West.

– Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? – K. hỏi như thế muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ.

– Phải có giấy phép, – có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: – Hay là không cần đến giấy phép nhỉ?

– Vậy thì tôi đi xin phép, – K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy.

– Nhưng đi xin ai? – Gã trẻ tuổi hỏi.

– Đến xin ngài bá tước, – K. trả lời, – tôi có thể đi xin ai khác được?

– Đến ngài bá tước để xin phép lúc nửa đêm thế này à? – Gã trẻ tuổi kêu lên và lùi lại một bước.”

Đang đêm, K. bị đánh thức một cách rất bất lịch sự. Gã trẻ tuổi dựng chàng dậy khi chàng vừa chợp mắt; ngay giữa đêm khuya, gã yêu cầu K. đưa ra giấy phép nghỉ đêm với lý do “Làng này là của lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây đều như sống hoặc nghỉ đêm trong lâu đài, phải được phép của bá tước.” Có vẻ đây là một nơi nghiêm khắc về luật lệ đến mức họ sẵn sàng đánh thức một người vào lúc giữa đêm và yêu cầu chàng ta giao ra giấy phép của bá tước. Nhưng khi K. hỏi làm thế nào để gặp bá tước thì người ta xem chàng như thể chàng đang đòi hỏi một điều quá sức tưởng tượng. Những lời gã Schwazer nói với K. rất mâu thuẫn. Gã ta đòi K. đưa ra giấy phép của bá tước rồi lại phủ nhận khả năng có thể xin được giấy phép của bá tước. Khi K. bắt trúng điểm mâu thuẫn ấy “Nếu không được thì tại sao anh đánh thức tôi dậy?”, gã ta liền tận dụng ngay thân phận của mình để khép tội K. dám chống lại người của bá tước, và “yêu cầu anh phải tôn trọng người của bá tước”. Một người phải đòi hỏi sự tôn trọng chỉ khi tự họ không thể khiến mọi người tôn trọng mình! Nếu K. không nói mình là “người đạc điền” thì có lẽ gã ta sẽ ném chàng ra ngoài làng giữa đêm đông ngay lập tức. Thân phận của gã Schwazer kia thật ra cũng chỉ là con trai một người giúp việc cho Quan phòng thành, gã ta chỉ là một kẻ “cáo mượn oai hùm” để chèn ép người khó khăn. Sự lạm quyền của gã đã để lại ấn tượng xấu cho K. về những người làm việc trong Lâu đài.

Càng theo chân K. đi sâu vào khám phá cơ chế “Lâu đài”, độc giả càng nhận ra sự quan liêu khó chấp nhận nổi của cái bộ máy vẫn được những thành viên của nó ca ngợi là tốt đẹp này. Những cuộc triệu tập diễn ra vào lúc nửa đêm và ngay trong phòng ngủ! Một lãnh địa nhỏ với cái văn phòng lớn, đầy những phòng ban, đầy những quý ông cầm quyền, những thư kí, người giúp việc, người hầu, người đưa thư… “trong những vụ việc không đáng kể thỉnh thoảng lại xuất hiện sai lầm nghiêm trọng”. Khi xác nhận thực hư thân phận của K., thái độ làm việc của Lâu đài tỏ ra kém hiệu quả khi phủ nhận thân phận chàng, rồi sau đó phải đính chính lại một cách qua loa tắc trách. Chỉ một vấn đề nhỏ là xác nhận có mời K. đến làm việc ở Lâu đài hay không, Lâu đài có thật sự cần đến người đạc điền hay không, vị trưởng thôn đã phải giải thích dài dòng lê thê và chỉ mê lộ những lời giải thích ấy thôi cũng đủ làm người đối diện mất phương hướng.

Lâu đài và Klamm, tất cả có mà như không, không mà như có. Vướng vào mê lộ những con đường, K. không bao giờ đến được Lâu đài. Thậm chí, quý ông Klamm vừa tồn tại vừa không tồn tại. Trong bức thư được người đưa thư cho là của ông ta thì “chữ ký không thể đọc được”. Mọi dấu vết về nhân vật này đều bị xóa nhòa. Trong công cuộc tìm kiếm, bất chấp nỗ lực của K., mọi thứ đối với chàng đều lơ lửng, vừa trong tầm tay vừa ngoài tầm tay. Hình tượng quý ông Klamm đại diện cho chính quyền “Lâu đài” thuộc về kiểu nhân vật độc tài vô hình – không ai có thể thấy được. Thậm chí, thứ quyền lực này còn đáng sợ hơn cái cách người ta từng tin vào Chúa trời, vì dẫu sao Chúa trời cũng có thể là một nguồn an ủi, còn Lâu đài thì không. Quyền lực Lâu đài chỉ làm người thừa nhận nó phải sợ hãi, và làm vụn nát cuộc sống của những ai không thừa nhận nó, khiến họ trở nên cô độc – như đối với K.

Đó là về những người “của Lâu đài”, những kẻ tồn tại vô hình chẳng ai biết mặt. Còn những nhân vật thật sự có mặt, đại diện cho Lâu đài trong mối liên hệ với dân làng? Vị trưởng thôn hiện ra với một hình ảnh thật thảm hại, ông ta tiếp K. ngay trên giường của mình và mọi công việc đều phải cậy nhờ vào người vợ. Chỉ là một bản thông báo đơn giản, nhưng để tìm được nó thì:

“Người đàn bà mở tủ, K. và trưởng thôn cùng nhìn vào. Cái tủ nhét đầy các loại giấy tờ. Khi người đàn bà mở tủ, hai tập hồ sơ lớn quấn lại thành hai tập giấy khổng lồ được bó thành một bó như người ta bó củi khô, truồi ra làm bà ta hoảng hốt nhảy sang một bên.

– Ở dưới ấy, ở dưới ấy. – Trưởng thôn nói, từ giường ông ta hướng dẫn vợ đang ôm cả bó hồ sơ và ngoan ngoãn lôi tất cả mọi thứ ra khỏi cái tủ để có thể lấy được giấy tờ nằm phía dưới. Số giấy tờ la liệt đó đã phủ kín nửa căn phòng.”

Đằng sau lời kể thản nhiên, thấp thoáng một nụ cười châm biếm, nhưng kết đọng lại vẫn là tiếng thở dài chua chát. Căn phòng của vị trưởng thôn bệnh tật vốn đã ngột ngạt, thế mà giấy tờ của lâu đài còn phủ kín đến cả nửa căn phòng (!). Quyền lực hiện hình trong chính mớ giấy tờ đó, đè nghẹt không gian sống của con người. Cuộc sống riêng của K. từ khi bước chân vào làng và phải đặt mình dưới quyền Lâu đài cũng chẳng khá hơn. Ngòi bút lạnh lùng Kafka thản nhiên ghi lại một nhận xét hài hước nhưng đầy mỉa mai: “K. chưa từng thấy ở đâu mà bộ máy hành chính và cuộc sống lại lẫn lộn với nhau như ở đây, đến mức dường như bộ máy hành chính và cuộc sống đã đổi chỗ cho nhau vậy. Tỉ như cái uy quyền trên danh nghĩa mà cho tới lúc này Klamm đã tỏ ra đối với sự phục vụ của K., có nghĩa gì so với cái uy quyền một cách thực tế mà Klamm đã có được trong phòng ngủ của chàng.” Frida là người yêu của chàng, cô chấp nhận theo chàng rời bỏ quán rượu, nhưng cô vẫn mang theo ám ảnh về “tước hiệu” “người tình của Klamm”. Đến cả những sinh hoạt riêng tư nhất cũng không tránh khỏi sự soi mói của hai người “phụ tá” (Gọi là phụ tá mà chẳng giúp được gì, vì thật ra K. có được làm công việc của mình đâu?) Bằng danh nghĩa phụ tá, họ lẽo đẽo theo chàng như những cái bóng lỳ lợm, dưới sự sai khiến của Lâu đài…

Lâu đài trong tác phẩm là biểu tượng của một hệ thống quyền lực độc tài, chuyên chế, cũ kỹ. Đi ngược quá trình tiến lên của lịch sử nhưng nó vẫn cứ tồn tại, đè nghẹt cuộc sống con người. Nỗi cô đơn của K. là nỗi cô đơn không tránh khỏi của những người bị lưu đày trong mê lộ quyền lực ấy. Họ mất cội nguồn, mất điểm tựa và mất cả phương hướng; họ không kịp hồi tưởng quá khứ hay nghĩ cho tương lai – chỉ sống ở hiện tại không thôi con người đã đủ rơi vào tấn bi kịch khôn cùng.Tuy nhiên, dù lạc lối trong mê lộ, họ lại có thái độ vừa đáng thương vừa đáng phục: không cam chịu buông xuôi mà dám dò dẫm khám phá, dám đặt quyết tâm tìm lời giải đáp cho thiết chế quyền lực phi lý.

Trong một mối quan hệ như thế, nỗi cô đơn của K. là một thứ bi kịch. Những người dân làng chịu đựng thứ quyền lực phi lý kia nhưng họ không gánh chịu bất cứ bi kịch nào, bởi họ chấp nhận nó một cách hoàn toàn tất nhiên. Trái ngược với dân làng, K. ý thức rõ được cái phi lý trong quyền lực Lâu đài và cội nguồn nỗi cô đơn của mình; nhưng chàng không giải quyết được nó, mọi nỗ lực nhằm tìm hiểu bản chất Lâu đài chỉ càng đẩy chàng ra xa hơn. Đó chính là bi kịch, theo nghĩa rộng của từ ngữ này.

Nỗi cô đơn trong mối quan hệ với Làng

Thế giới được miêu tả trong tác phẩm phân thành hai tầng rõ ràng, tách biệt. Nếu phía trên là Lâu đài với quyền lực vô hình thì phía dưới là Làng. Cũng như Lâu đài, Làng không chấp nhận K., trước hết vì K. không được xác nhận của Lâu đài, và sâu xa hơn, vì K. không giống họ. Lâu đài là cội nguồn của nỗi cô đơn, còn những mối quan hệ nhạt nhòa có cũng như không với dân làng chính là nơi thể hiện rõ nhất nỗi cô đơn ấy của nhân vật K..

Trong khoảng thời gian lưu lại ở làng, K. không phải là không làm quen được một ai. Chàng cũng đã có một vài người quen biết: bà chủ quán trọ, thầy giáo làng, gia đình anh chàng đưa thư Barnabas, và đặc biệt, Frida. Thế nhưng, những quan hệ này không cứu vãn nỗi sự cô độc của chàng. Nó chỉ càng làm rõ thêm thế đứng chông chênh của K. khi Lâu đài – tầng trên và Làng – tầng dưới đều không chấp nhận; chàng kẹt lại giữa hai tầng thế giới đó và mọi nỗ lực thét gào không được ai nghe thấu.

Quan hệ giữa con người được thể hiện trước hết bằng đối thoại. Nhưng, trong tác phẩm, đối thoại gần như độc thoại. Mặc dù đang trò chuyện, lời nói của mỗi người không hề ăn khớp nhau. Con người với con người, ngay trong hình thức giao tiếp sơ khai nhất vẫn cứ là xa cách. Họ không nói thật. Họ nghi ngờ lẫn nhau. Hãy thử đọc lại một cuộc trò chuyện giữa K. với bà chủ quán:

“– Anh chưa học nghề cắt may sao? – Bà chủ quán hỏi.

– Chưa bao giờ, – K. trả lời.

– Anh làm nghề gì?

– Đạc điền.

– Nghề đó là gì?

giải thích, bà chủ quán vừa nghe vừa ngáp.

– Anh không nói thật. Tại sao anh không nói thật?

– Bà cũng không nói thật.”

Những cuộc hội thoại như thế không đưa con người đến được mục đích của mình, thậm chí, không đưa con người đến được gần nhau. Nó chỉ càng tô đậm thêm sự nghi ngờ và xa cách. Lại một lần nữa, tiếng thở dài của con người nhạy cảm Kafka âm vang sau những miêu tả rất khách quan.

Trong những bước đi vô vọng tìm đến Lâu đài, cũng có đôi lúc K. được một ai đó giúp đỡ, nhưng đến cả những khoảnh khắc lóe sáng hiếm hoi kia thật ra cũng không nhằm mục đích tốt đẹp. Những câu trả lời rời rạc của thầy giáo hay sự giúp đỡ của người đánh xe không hề có ý nghĩa thân thiện hay khuyến khích. Người đánh xe giúp đỡ chàng “hoàn toàn không thể hiện sự thiện chí mà hầu như chỉ là sự cố gắng ích kỷ và hoảng hốt nhằm tống khứ K. đi cho khuất mắt”.

Thậm chí, trong mối quan hệ khắng khít nhất với chàng là Frida, nỗi cô độc cũng hiện hữu. Cô yêu chàng, chấp nhận từ bỏ “tước vị” “người tình của Klamm” để đến với chàng, nhưng điều đó không đủ với K. Sau cái say mê đột ngột đầu tiên, tình yêu của họ trở lại nhạt nhòa bởi nó không xuất phát từ cảm thông hay thấu hiểu:

“- Em tin là em hiểu anh, – Frida nói rồi ôm ngang cổ chàng, cô ta còn muốn nói điều gì đó, nhưng không nói được, bởi vì cái ghế ở ngay cạnh giường nên họ lăn xuống giường. Họ nằm trên giường, nhưng không mê mẩn như đêm trước. Frida tìm một cái gì đó, K. cũng thế. Mặt nhăn nhó, miệng rên rỉ, họ chúi đầu vào nhau tìm cái gì đó. Họ ôm nhau, cơ thể họ cứ nẩy lên, nhưng việc đó không làm cho họ quên đi mà ngược lại, chỉ càng làm cho họ nhớ tới nhiệm vụ là phải tìm kiếm. Họ cào cấu thân thể nhau giống như những con chó cào bới mặt đất một cách tuyệt vọng. Rồi thỉnh thoảng họ liếm khắp mặt nhau một cách bất lực, chán chường trong niềm hy vọng cuối cùng của hạnh phúc. Khi đã mệt mỏi, họ nằm im, và nỗi niềm biết ơn đối với nhau trỗi dậy trong họ.”

Trong văn chương, những cảnh làm tình thường được miêu tả hoặc đẹp đẽ hoặc trần trụi, chứ ít có cảnh làm tình nào lại diễn ra kỳ lạ và khó hiểu đến thế. Sự gần gũi chỉ mài sắc thêm ý thức rằng phải tìm kiếm một cái gì đó trong họ; và hẳn là cuộc tìm kiếm này bất thành, nên cuối cùng họ tuyệt vọng và bất lực. Những ngày bắt đầu cuộc sống đôi lứa của K. là như thế, và chẳng trách gì, chẳng ngạc nhiên gì khi cuối cùng Frida chọn cách rời đi, bởi lẽ dù có yêu nhau thì họ không thể chia sẻ cho nhau được những gì họ nghĩ. K. không thể chia sẻ được với Frida cái quá khứ từng là người tình của Klamm, và quan trọng hơn là nỗi kính sợ Lâu đài, điều mà tên phụ tá tưởng chừng như rất gàn dở và vô dụng của chàng lại làm được. Cũng như, ở phía ngược lại, K., chàng không thể làm cho Frida hiểu cái khát vọng tìm đến ngọn nguồn quyền lực của Lâu đài luôn thôi thúc chàng.

Qua cuộc chia tay của K. với cô người yêu Frida, ta nhận ra, trong cuộc sống của dân làng, ý thức bầy đàn là yếu tố tiên quyết. Giống như những người phục vụ Lâu đài có một bộ đồng phục riêng để thể hiện tình trạng thuộc-về-bộ-máy-quyền-lực của mình (đó là lý do khiến Olga hoang mang về chuyện đồng phục cho em trai mình, một nỗi hoang mang tưởng chừng hết sức vô lý), những người dân làng mặc cùng một bộ đồng-phục-tư-tưởng: thái độ chấp nhận quyền lực của Lâu đài. Sự kính sợ Lâu đài được dựng nên bởi tất cả mọi người đều cùng kính sợ. Ngoài K., người mới tới, không ai đặt câu hỏi về quyền lực của Lâu đài, dù đó là kẻ bị đối xử bất công nhất như gia đình Olga – cô chấp nhận sự trừng phạt như thừa nhận một điều tất yếu. K. cô đơn không đơn giản chỉ vì chàng là người khách từ xa đến và ở đêm trong làng mà không có giấy phép, nguyên nhân cốt lõi nhất bởi vì chàng là ngoại lệ trong bầy đàn đó, vì chàng là người duy nhất dám đặt câu hỏi giữa tập thể những kẻ chấp nhận.

Trong tất cả nhũng mối quan hệ của mình, K. là một con người cô đơn, nhưng nỗi cô đơn của chàng có nguồn gốc, có sự vận động và có cả hướng giải quyết. K. bị vướng trong quyền lực lâu đài và trong khát vọng khám phá bản chất quyền lực đó của chính chàng. Giả sử, nếu K. ngay từ đầu chấp nhận rằng lời mời chàng đến làm việc đơn thuần là một nhầm lẫn và quyết định rời làng ngay sau khi trò chuyện với trưởng thôn, mọi sự với chàng có phải sẽ dễ dàng hơn?

Cũng như Lâu đài, Làng là một hình ảnh biểu tượng. Nó tượng trưng cho cộng đồng với đầy đủ những mặt trái của nó, đặc biệt là ý thức bầy đàn quá mạnh mẽ khiến cộng đồng đó sẵn sàng cô lập những ai không cùng hệ ý thức với họ. Trong tác phẩm, sự tồn tại của Làng với những con người cụ thể càng tô đậm thêm nỗi cô đơn không thể thoát ra được của nhân vật K..

Lâu đài Tác giả Franz Kafka pdf

Lâu đài Tác giả Franz Kafka docx

Lâu đài Tác giả Franz Kafka txt

PS: Đám rối trong quá trình rối tung lên tự bản thân chúng cũng thể hiện ý nghĩa nội tại của chúng. Một tác phẩm đa chiều ma trận mà mỗi người đọc tự rút ra một ý nghĩa phù hợp với bản thân họ.

30.7.20

Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati

Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati Dino Buzzati là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất ở Italia - và cả ở ngoài biên giới nước ông; sáng tác đa dạng của ông chiếm một vị trí khá đặc biệt trong văn học Italia thế kỷ XX. 

Sinh năm 1906 dưới chân núi Alpơ trong một gia đình trí thức, ngay từ nhỏ ông đã được thụ hưởng hai điều góp phần tạo nên tính cách nhà văn tương lai - thư viện gia đinh rất lớn và phong cảnh núi rừng hùng vĩ. Tốt nghiệp đại học, từ năm 1928 ông trở thành phóng viên báo chí (cho đến cuối đời ông là một nhà báo cần mẫn và thành đạt), và cũng bắt đầu sự nghiệp văn chương. Năm 1933, Baranabo từ núi xuống, tiểu thuyết đầu tay của ông ra đời, bước đầu bộc lộ triết lí sống của ông: không có gì có thể cứu chuộc, bù đắp được những nỗi khổ đau vô nghĩa mà cuộc đời mang lại cho con người, nên hãy cố sống hòa hợp với thiên nhiên, giữa thiên nhiên. Năm 1935 ông xuất bản cuốn Bí mật khu rừng cũ, nhưng phải đến năm 1940 với Hoang mạc Tácta Dino Buzzati mới thực sự chiếm lĩnh văn đàn.
Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati
Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati


Hoang mạc Tácta là tác phẩm tiêu biểu, đỉnh cao trong sáng tác của Dino Buzzati và được coi là sự kiện văn học lớn nhất Italia những năm đó. Tình tiết cuốn tiểu thuyết có vẻ đơn giản, kể về cuộc đời một sĩ quan trẻ đến đồn trú tại pháo đài biên giới tiếp giáp hoang mạc bí ẩn Tácta, trải qua những háo hức ban đầu, những đợi chờ đằng đẵng về chiến công, về “một sự kiện quan trọng nào đó sẽ xẩy ra”, và cuối cùng kiệt quệ, tiêu phí năm tháng trong những hi vọng mong manh và vô ích. Nhưng đây là tác phẩm đầy tính biểu tượng, từ các trang sách toát ra những suy ngẫm buồn và sâu lắng về đời người và cái chết, về dòng chảy của thời gian không gì cản nổi và càng lúc càng gấp gáp gặm mòn cuộc sống. Cuộc đời kết thúc một cách bi thảm và phi lý. Cuốn tiểu thuyết gợi nhớ đến Kafka, ngay tên tác phẩm ban đầu Buzzati đặt cũng là Pháo đài - một liên tưởng với Lâu đài của Kafka. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể có sự khác biệt giữa Buzzati và Kafka - tác giả Hoang mạc Tácta còn để lại cho nhân vật một niềm hi vọng - hay một quan niệm cứu rỗi - rằng sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời vẫn còn phía trước: đó là cái chết. Và cuộc đời sẽ không phi lí, vô nghĩa nếu con người bước vào cuộc chiến cuối cùng một cách dũng cảm và thanh thản, đón nhận cái chết như một hiện tượng tự nhiên.

Vào một sáng tháng Chín đẹp trời Drogo, giờ đã là đại úy Giovanni Drogo, lại cưỡi ngựa đi trên con đường dốc dần từ thung lũng đến pháo đài Bastiani. Chàng có một tháng nghỉ phép, nhưng mới qua hai mươi ngày chàng đã vội vã quay trở lại: thành phố trở nên lạ lẫm hoàn toàn đối với chàng, các bạn bè cũ đã thành đạt, chiếm giữ những địa vị khá giả trong xã hội và chào đón chàng một cách khinh thị như với một sĩ quan tầm thường. Mà ngay cả ngôi nhà thân thuộc, vẫn được yêu dấu như xưa, gọi lên trong Drogo chỉ một tình cảm tiếc nuối nhói lòng. Mỗi lần, khi trở về, chàng bắt gặp nó gần như là hoang vắng - phòng của người mẹ đã trống không vĩnh viễn, các anh em luôn luôn trong những chuyến đi, một trong số họ lấy vợ và chuyển sang sống ở một thành phố khác, người thứ hai tiếp tục lang bạt khắp thế gian, các căn phòng có vẻ không người sống - những giọng nói trong chúng vọng lại bằng tiếng vọng vang ngân, thậm chí cả các cửa sổ mở toang và ánh mặt trời cũng chẳng giúp nổi.
Và thế, Drogo lại từ thung lũng đi lên Pháo đài, chỉ cuộc đời chàng là rút ngắn đi những mười lăm năm tròn. Thế nhưng chàng không cảm thấy trong lòng những đổi thay gì đặc biệt: thời gian bay qua nhanh đến độ tâm hồn chàng không kịp già đi. Và dù nỗi âu lo thấp thỏm mơ hồ về thời gian trôi đi không trở lại ngày càng thể hiện mạnh hơn, Drogo cứ kiên trì không chịu giã từ cái ảo ảnh, rằng điều chủ chốt nhất của chàng vẫn còn ở phía trước. Giovanni nhẫn nại chờ đợi cái giờ của mình, cái giờ mà mãi vẫn chưa đến, chàng không hề nghĩ về việc tương lai bị rút ngắn đi nhiều một cách đáng sợ, rằng nó đâu còn như trước kia, khi được coi tưởng như là kho báu bất tận - thật không thể nào vơi cạn, ta có thể vung tiêu không đếm xỉa.

Có lần Drogo nhớ lại rằng đã lâu lắm chàng không cưỡi ngựa trên sân tập phía trước Pháo đài. Chàng thậm chí nhận thấy mình chẳng còn chút thiết tha gì với điều đó, còn những tháng gần đây (trời mới biết là bao nhiêu tháng) chàng đã không còn chạy cầu thang nhảy cách hai bậc một nữa. Thật ngốc nghếch, Giovanni nghĩ, thể lực chàng mạnh khỏe như trước đây; không nghi ngờ rằng mọi thứ có thể bắt đầu lại từ đầu, và chẳng cần phải chứng minh gì với bản thân cả - điều ấy hẳn chỉ là nực cười thôi.
Phải, thể lực của Drogo hiện giờ không hề thua kém trước kia, và chỉ cần chàng giờ đây bỗng nghĩ chuyện phi ngựa hoặc chạy lên cầu thang, hẳn chàng sẽ làm được việc đó một cách tuyệt vời, nhưng cái chính là ở chỗ khác, cái chủ yếu là chàng không còn cảm thấy lôi cuốn tới việc đó, là sau bữa trưa chàng thích ngủ mơ màng dưới ánh mặt trời hơn, chứ không phải là phóng ngựa tối lui trên bãi tập lởm chởm đá. Đó mới là vấn đề, đó mới là minh chứng về những tháng năm đã mất.

Ôi, nếu những ý nghĩ như thế lẻn vào đầu chàng vào cái buổi chiều kia, khi lần đầu tiên chàng bắt đầu đi lên cầu thang theo từng bậc một! Chàng cảm thấy mình có phần mỏi mệt, quy luật vẫn là quy luật, đầu chàng dường như bị một cái đai xiết lại, thậm chí chàng khước từ chơi bài như thói quen (tuy nhiên, trước đây cũng có những trường hợp khi chàng không phóng nhanh trên cầu thang vì một sự mệt mỏi nhẹ nào đó). Nhưng chàng không thể tự hình dung rằng buổi chiều ấy là một điểm mốc rất buồn thảm trên hành trình của chàng, rằng trên các bậc thang đó, vào chính những thoáng giây ấy đã kết thúc thời trai trẻ của chàng, rằng sang sáng ngày hôm sau lối sống của chàng sẽ trở nên hoàn toàn khác và thời oanh liệt sẽ không quay lại cả vào ngày mai lẫn ngày kia. Không bao giờ nữa.
Và bây giờ đây khi Drogo trầm ngâm đang cưỡi ngựa đi lên theo sườn thung lũng dốc chan hòa ánh nắng và con ngựa đã mệt chuyển sang bước kiệu, từ phía đối diện vọng đến giọng nói của ai đó.
“Chào ngài đại úy!” - chàng nghe thấy và quay lại, nhận ra một sĩ quan trẻ cưỡi ngựa trên con đường uốn lượn theo sườn dốc khác. Khuôn mặt hình như không quen, nhưng xét qua dấu hiệu cấp bậc thì đó là một trung úy. Có lẽ, chàng thầm nghĩ, thêm một sĩ quan nữa tại đồn binh của chàng đã nghỉ phép xong giờ cũng đang quay lại Pháo đài.

- Chuyện gì thế? - Giovanni hỏi, ghìm ngựa và đáp lại lời chào theo điều lệnh của viên trung úy.
Nguyên nhân nào có thể làm cậu sĩ quan trẻ gọi chàng, mà thêm nữa, lại với vẻ thoải mái vậy nhỉ?
Bởi cậu kia không đáp lại, Drogo hét to hơn và đã có phần bực bội:
- Chuyện gì thế hả?
Vươn thẳng người trên yên ngựa, viên trung úy xa lạ xếp hai bàn tay thành loa kèn và kêu:
- Không gì cả, đơn giản là tôi muốn chào ngài thôi ạ!
Giovanni cảm thấy lời giải thích đó thật là ngờ nghệch, thậm chí gần như là lăng mạ, nó thật quá giống với sự mỉa mai. Thêm nửa giờ đi ngựa, sẽ đến chiếc cầu nơi hai con đường nhập vào nhau. Vậy thì cần quái gì những lễ nghi dân sự không đúng chỗ thế này?
- Anh là ai? - Drogo hét đáp lại.
- Trung úy Moro ạ!
Trung úy Moro? Ít ra đại úy cũng nghe thấy như thế. Trong Pháo đài không có ai có họ tên thế cả. Có thế, đó là một sĩ quan cấp thấp đang đi tới nơi bổ nhiệm chăng?
Chỉ bấy giờ chàng mới thấy đau đớn trong lòng với cái hồi ức về một ngày xa xăm, khi lần đầu tiên chàng theo con đường đi lên Pháo đài, về cuộc gặp gỡ với đại úy Ortis chính cũng ở chỗ này của vách núi, về khát khao nôn nóng của mình trao đổi lời nói với một người sống, về cố gắng ngây ngô bắt chuyện qua vực thẳm.

Mọi điều đều y như vào cái ngày ấy, chỉ với một khác biệt là việc đổi vai và giờ đây chàng, Drogo, một đại úy già, lần thứ hàng trăm đi tới Pháo đài Bastiani, còn người mới là cậu trung úy với cái tên Moro xa lạ đối với chàng. Chi ở đây nhận thức Drogo mới sáng rõ ràng qua thời gian này cả một thế hệ đã đổi thay, rằng giờ đây chàng đã bước sang bên kia cái vạch khốc hại, vào hàng ngũ những lão già mà như hồi ấy chàng cảm giác là Ortis thuộc về nó. Và đấy, xé nhỏ tuổi năm mươi, chẳng làm được điều gì to tát trong đời, lại còn không con cái, không một sinh thể gần gũi trên cả thế gian. Giovanni bối rối ngước nhìn tứ phía và cảm thấy rằng cuộc đời chàng đã trượt xuống sườn dốc.
Chàng trông thấy những bức tường lởm chởm cây bụi, những khe núi ẩm ướt, những dãy núi lô nhô răng cưa trần trụi áp sát nhau trên nên bầu trời, bộ mặt dửng dưng của núi non; còn phía bên kia vực - cậu trung úy trẻ măng, rụt rè và bối rối, kẻ tất nhiên đang tự an ủi bằng hi vọng rằng cậu ta phục vụ trong Pháo đài tất thảy chỉ mấy tháng, và mơ ước về con đường danh vọng ngời chói, những chiến công trận mạc hiển hách, mối tình thơ mộng.

Drogo vỗ vỗ vào cổ con ngựa của mình, còn nó thân tình quay đầu lại phía chàng, nhưng nó không thể hiểu được gì. Trái tim Drogo co thắt lại: vĩnh biệt, những ước mộng xưa cũ, vĩnh biệt, những mềm vui cuộc sống! Mặt trời rỡ ràng chiếu sáng mọi người một cách âu yếm, bầu không khí tươi sống uốn cuộn lên từ thung lũng, những bãi cỏ trên núi ngát hương, tiếng ca của chim chóc họa lại tiếng của thác nước. Trong một ngày tuyệt diệu thế này mọi người phải hạnh phúc, Drogo nghĩ và sửng sốt nhận ra rằng mọi thứ xung quanh dường như vẫn giữ nguyên y như vào cái buổi sáng diệu kì thời thanh xuân của chàng. Chàng chạm vào dây cương. Sau nửa giờ Drogo nhìn thấy chiếc cầu, nơi hai con đường hòa nhập vào nhau, suy nghĩ về điều sắp sửa trò chuyện với viên trung úy, và trái tim chàng lạí co thắt xót xa.

Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati docx
Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati pdf
Hoang Mạc Tácta tác giả Dino Buzzati txt