Search

18.1.23

KINH TẾ NHỊ - GIẢ ĐỊNH VÀ BẢN CHẤT

Trong Chú Giải, nội dung bài Kinh có ý nghĩa thế này: Chúng ta có hai cách nhìn về thế giới này, cách nhìn thứ nhất là cách nhìn trên phương diện tục đế hay là chế định, hay là thi thiết, hay là biến kế sở chấp, cách nhìn của thế trí biện thông.


Chúng ta thấy chúng ta nhìn một cái cục đất thì chúng ta gọi đó là cái tượng gốm, cái bình gốm, mà trong khi đó nói chung quy lại thì cái tượng gốm hay là cái bình gốm thì nó cũng chỉ là từ cái cục đất đi ra, mà tùy thuộc vào cái hình dáng, tùy thuộc vào cái màu sắc, tùy thuộc vào những chi tiết này nọ ở trên một cái khối đất, một miếng đá, một miếng kim loại, một miếng gỗ, một miếng nhựa, thì chúng ta mới gọi tên nó theo cái cách hiểu thường thức của thế gian.
Mình gọi đó là nam, là nữ, nhưng thật ra nó chỉ là một khối thịt, da, gân, xương thôi với một mớ lục phủ ngũ tạng là mình mới gọi đó là nam, đó là nữ, chứ còn mà mình bỏ vô cối mình quết thì ai cũng như người nấy, khi bỏ vô lò thiêu thì ai cũng như người nấy, bánh xe mà nó nghiến qua rồi thì ai cũng như người nấy thôi, nhưng tùy thuộc vào hình dáng, màu sắc và những chi tiết lớn bé của khối vật chất thì mình gọi đó là nam, là nữ, là thùng, thau, chum, chóe.
Rồi về tinh thần chúng ta cũng có những cái khái niệm, thí dụ như khái niệm về hội họa, ngoài con mắt ra, ngoài cái thị giác nó còn có cái giác quan thứ sáu nữa, rồi những khái niệm về hội họa, những khái niệm về âm nhạc, những khái niệm về kiến trúc, thì những hình dung, những liên tưởng đó mình gắn lên nó vô vàn những cái khái niệm, những cái ý niệm, những cái quan niệm, những thành kiến, những định kiến, những cái biên kiến.
Thì cái cách mình quan sát thế giới như vậy đó được gọi là quan sát theo cái phương diện tục đế hay là chế định, hay là thi thiết.
Cái cách nhìn thế giới thứ hai tức là mình nhìn ngắm nó từ góc độ bản chất, cái cách một là quan sát nó trên cái hiện tượng, nhưng mà cái cách hai là quan sát nó trên bản chất, thì cái cách quan sát này, chỉ có chư Phật mới dạy cho mình biết thôi, có chư Phật ra đời mới dạy cho mình từng bước, từng bước như là mẹ dạy con vậy đó.
Trước hết là Ngài dạy rằng cái thân này nó dơ lắm, người ta gọi là đẹp xấu, già trẻ, nam nữ gì đi nữa thì chỉ là 32 thể trược, tóc lông móng răng da, thịt gân xương tủy thận, tim gan mật đàm mủ máu mồ hôi phẩn nước tiểu gì đó, thì đó là cách một, là đối với một số người hữu duyên họ nghe vậy họ đã oải rồi, họ đã chán muốn buông rồi.
Nhưng mà có một số người thì họ không có thích nghe cái kiểu đó, mà họ thích nghe cái kiểu nó rốt ráo hơn, đó là Ngài dạy rằng nam phụ lão ấu, già trẻ, bé lớn, đẹp xấu, da trắng, da vàng gì đi nữa thì chỉ là một khối 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, chỉ là 4 đế, chỉ là 12 duyên khởi, chỉ là 24 duyên hệ, chỉ vậy thôi! Thì cái cách nhìn rốt ráo này được gọi là nhìn qua khía cạnh chân đế...
Kinh này, chúng tôi căn cứ vào Chú-giải mà giảng, chứ chúng tôi tuyệt đối không có giảng theo ý riêng...
Ở đây Đức Phật Ngài dạy rằng khi mà một vị hành giả nói chung và một vị Tỳ-kheo, ở trong bài Kinh này Đức Phật gọi Tỳ-kheo nói riêng, khi tu tập tuệ quán, khi mà vị đó quan sát sắc, thọ, tưởng, hành, mà từ cái góc độ chân đế, từ cái gốc độ rốt ráo, khi mà đã có được một cái nhìn như vậy, vị ấy không muốn quay lui. 
Một cái người mà họ đã thấm thía rốt ráo cái bản chất chân đế của sắc, thọ, tưởng, hành, thì họ không còn có cái ý muốn gọi là quay lui để mà quan sát thế giới từ cái góc cạnh chế định nữa, chẳng qua là vì cái đời sống, vì cái nhu cầu trước mắt thì người ta phải tiếp tục ăn uống, tắm rửa, đi đứng, nói cười. 
Tôi nhắc lại lần nữa, thấm thía rốt ráo, chứ còn cái kiểu mà tu cà lơ phất phơ, ầu ơ ví dầu..., tôi muốn nói là cái người mà thấm thía thật sự, biết chán sợ cái tánh sanh diệt của danh sắc, dầu là phàm nhưng mà thấy rõ và tin chắc rằng đời sống của mỗi người chỉ là cái sự lắp ráp, ghép nối của từng cái sát na sanh diệt, mình thấy mình ngon lành, mình đẹp, mình giỏi, nhưng mà thật ra đó chỉ là một khối năm uẩn thôi.

Một cái người mà họ đã thấm thía rốt ráo cái bản chất chân đế của sắc, thọ, tưởng, hành, thì họ không còn có cái ý muốn gọi là quay lui để mà quan sát thế giới từ cái góc cạnh chế định nữa, chẳng qua là vì cái đời sống, vì cái nhu cầu trước mắt thì người ta phải tiếp tục ăn uống, tắm rửa, đi đứng, nói cười.



Kalama tri ân bạn sumanaduong ghi chép



Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian

17.1.23

GÁNH NẶNG

Một người còn trông đợi, còn hy vọng, còn nuôi ảo mộng kiếm tìm một cái gì vĩnh cửu thường hằng ở trong cái cuộc đời này thì cái người đó không thể nào mà chạm tay được cứu cánh giải thoát. Không thể được.


Chỗ này rất quan trọng. Trước hết là chánh niệm. Phải sống chánh niệm cho nó đủ mạnh để cho cái tuệ nó làm việc. Và khi cả hai cái này nó đủ mạnh thì mình mới thấy được một điều vô cùng quan trọng. Đó là cái sự hiện hữu này nó là một cái gánh nặng, nói vậy không sai, nó là một cái gánh nặng mình phải mang vác nó đi từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm. 
Nó còn là một cái nhà ngục, một cái nhà giam. Là bởi vì ngay trong chính hình hài này chúng ta muốn vượt thoát ra ngoài những hệ lụy của nó không được. Hễ còn mang thân này là chúng ta phải chấp nhận những hệ lụy của nó. Nhẹ nhẹ là đói, khát, nóng, lạnh, tê, mỏi, nhức, buốt, ngứa ngáy, là nhẹ đó. Rồi có cái thân này chúng ta phải ăn uống, tiểu tiện, tắm rửa, rồi áo quần, rồi nhà cửa, giày dép, xe cộ, tùm lum hết. Bao nhiêu là vấn đề, bao nhiêu là hệ lụy đi ra từ đó.
Phải là người có chánh niệm họ mới thấm cái đó. Còn bây giờ mình không sống chánh niệm, mình sống lăng xăng lăng xăng, thất niệm và phóng dật, thì cái đó nếu mà chúng ta có nghe giảng 100 năm đi nữa thì chúng ta cũng không có thấy sợ đâu, không thấy sợ; nhưng mà phải sống chánh niệm chúng ta mới thấy cái thân này nó là gánh nặng.
Rồi cũng với chánh niệm và trí tuệ, chúng ta thấy cái khía cạnh thứ ba. Đó là cái sự vô nghĩa, đó là cái sự tẻ nhạt, đó là cái sự vô vị của sự hiện hữu này.
Chỉ với đời sống chánh niệm chúng ta mới thấy được những khía cạnh đó:
Nó là gánh nặng mà mình phải mang vác cả một đời.
Nó là nhà giam khiến mình phải bị tù hãm trong mấy chục ký lô này.
Cái sự tồn tại của nó là vô nghĩa, là sự vô vị, là sự tẻ nhạt mà không có một mục đích gì hết. Do nhân do duyên còn đủ thì nó còn hiện hữu, thì mai này nhân duyên của kiếp này mãn nó lại có nhân duyên nó đi về một phương khác, cứ như vậy một cái hành trình phải nói là thăm thẳm, đằng đẳng không biết bao giờ kết thúc.
Hiểu được cái chỗ đó thì mình mới lìa được cái tư tưởng mà đi tìm một cái thường còn. Cái ý niệm tìm một cái gì đó vĩnh cửu khởi đi từ cái chuyện mà mình còn thấy trên đời này nó có cái gì đó nó hay hay, nó ngọt ngọt.
Mình thấy nước Mỹ nó là cái gì đó, nước Nhật, nước Đức, nước Thụy sĩ nó là cái gì đó mình mới có ý định cư, mình xin cái quốc tịch. Chớ còn nếu mà cái đất nước đó mà mình thấy nó là Syria, nó là Li băng, nó là Iraq, nó là Campuchia, nó là một cái xứ Ethiopia, Somalia, Uganda ở bên Châu Phi đó, nếu mình thấy nó như vậy thì mình không có hứng thú mà nghĩ đến chuyện định cư lâu dài, một sự nghiệp trường kỳ ở những nơi chốn đó đâu quí vị. Tôi khẳng định như vậy. Chỉ khi nào mình thấy nó là Úc, nó là Mỹ, nó là Nhật, nó là Pháp, nó là Thụy sĩ, nó là một xứ Bắc Âu ngon lành nào đó thì mình mới có ý định cư.
Ở đây cũng vậy khi mà mình còn thấy cái thế giới này nó là cái gì đó còn có chỗ ngọt ngào, còn có chỗ tin cậy, tín nhiệm, trông đợi, hoài vọng được thì chúng ta mới còn có ý tưởng, mới còn có ý tưởng đi tìm kiếm cái gì trường hằng vĩnh cửu.
Cho nên ở đây nói rất là gọn: vị tỳ kheo nào còn thấy các hành, thấy vạn vật là thường hằng thì vị đó không có khả năng chứng ngộ thánh quả. Cái đó nói gọn nhưng mà nói cho tới nơi thì nó như thế này: Sở dĩ mà anh còn thấy cái gì đó nó còn trường tồn là bởi vì anh chưa thấy mọi sự nó là khổ, mà khi anh chưa thấy mọi sự là khổ thì có nghĩa là anh chưa thấy khổ đế là gì, mà một người chưa thấy khổ đế thì làm sao mà thấy được tập đế, làm sao mà thấy được diệt và đạo đế? Mà một người không thấy bốn đế thì làm sao mà chứng thánh được. Khổ quá, chuyện đó rất là đơn giản, rất là tiểu học, rất là sơ đẳng.
Khi mà anh có lòng đi tìm một cái trường cửu nghĩa là anh không chịu thấy rằng mọi sự nó là nhà ngục, nó là sự giam hãm, nó là sự mệt mỏi, tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa, và trên hết nó là gánh nặng. Khi mà thấy được nó là gánh nặng, nó là nhà giam, nó là sự vô nghĩa thì chúng ta không có ý đi tìm cái này. Chúng ta còn trông đợi vào một cái gì vĩnh hằng cũng có nghĩa là chúng ta chưa thấy được cái nọ, chưa thấy được mọi sự là khổ. Nhớ nha. Cái này rất là quan trọng.

Một người còn trông đợi, còn hy vọng, còn nuôi ảo mộng kiếm tìm một cái gì vĩnh cửu thường hằng ở trong cái cuộc đời này thì cái người đó không thể nào mà chạm tay được cứu cánh giải thoát. Không thể được.
Một người còn trông đợi, còn hy vọng, còn nuôi ảo mộng kiếm tìm một cái gì vĩnh cửu thường hằng ở trong cái cuộc đời này thì cái người đó không thể nào mà chạm tay được cứu cánh giải thoát. Không thể được.



Trích bài giảng KTC.6.99 Khổ. - sư Giác Nguyên giảng.
Kalama xin tri ân bạn elteetee ghi chép.



Thống kê SÁCH đọc nhiều theo thời gian